Trong ký ức của người dân, hội làng Miêng Hạ (xã Hoa Sơn, huyện Ứng Hoà, Hà Tây) được coi là hội pháo. Hội làng hàng năm tổ chức vào ngày mồng 4 tháng giêng. Tương truyền, ngày này, thần Cao sơn, vị thành hoàng làng thờ ở đền Thạch được dân tôn xưng là Đức Thánh cả cầm quân đi đánh giặc bảo vệ bờ cõi nước Văn Lang dưới thời vua Hùng thứ 18 đã giành thắng lợi, đem quân về Miêng Hạ mở hội khao thưởng.
Lễ hội khai mở vào giờ thìn, từ 7 đến 9 giờ sáng, bằng một tiếng pháo lệnh. Làng có 6 giáp chia phiên đến lượt giáp nào đăng cai tổ chức lễ hội năm đó thì ông trùm giáp được cầm trịch (cầm dùi) đánh 3 hồi trống và ra đốt ngòi pháo lệnh. ống lệnh bằng đồng, quả pháo nhồi thuốc nặng đến 30-40kg. Nghe tiếng pháo lệnh nổ thì từ ba nơi đền Thạch (của giáp Thạch, giáp Trù), đền Đông (của giáp Đông, giáp Tây), đền Thượng (của giáp Thượng, giáp Đình) sẽ nghênh kiệu về tựu ở đình. Mỗi nơi rước 2 cỗ kiệu, trong đó có một kiệu rước cây bông. Cây bông là vật làm bằng tre kết cấu hai tầng hình nón cụt, mặt trên đường kính 10cm, mặt dưới 40cm, xung quanh ken đều 36 thanh tre vót tròn dài khoảng 40cm vòng quanh mỗi thanh tre quấn giấy xanh, đỏ, vàng để tua. Tâm hình nón cụt là một ống tre dài khoảng 40cm, được định vị bởi hai thanh tre hình chữ thập ở mặt và khoảng gần hình chóp.
Các giáp rước các cỗ kiệu, trong đó có kiệu cây bông, về đặt trước cửa đình để tế lộ thiên vào giờ ngọ (12-1 giờ chiều) hay còn gọi là tế yến lộ thiên. Nghi thức tế rất long trọng. Điều hành cuộc tế là chủ tế và hai ông đông xướng, tây xướng.
Khởi đầu, xướng:
– Khởi chinh cổ tam thông (Nổi ba hồi chiêng trống).
Xướng tiếp:
– Nhạc âm, nhạc ti đồng khởi. (Dàn nhạc cùng đánh).
Xướng tiếp:
– Thiêu pháo.
Dứt lời, hàng loạt cây pháo của các hàng giáp và các gia đình thi nhau đốt tạo nên một không khí sôi động tiếng pháo mô phỏng tiếp sấm, loé ra ánh chớp và tưởng như dào dạt những trận mưa không dứt tưới xuống làm tốt tươi mùa màng.
Việc tế lộ thiên xong, trai đinh các giáp rước kiệu vào đặt trong đình. Những ngày sau đó các cụ tế, về chiều trai thanh gái lịch đi xem hát hay đánh võng trên cây đu tiên.
Sau này hội pháo tốn kém, làng không tổ chức nữa mà chủ yếu diễn trò ội ại.
Vui hội và tế lễ thần cho tới buổi tối ngày rã đám, khoảng nửa đêm, thì làng có tiết mục giải áo, nghĩa là mọi màn trướng ở đình đều hạ xuống. Sau đó, các quan viên vào làm lễ tạ. Cuối cuộc tế tạ là lễ tế tẩu mã. Khi ấy đèn đuốc trong đình đều đã tắt, trai đinh các giáp vào đình không ai nói cười, lặng lẽ đưa các cỗ kiệu ra khỏi đình. Ở ngoài, dân hàng giáp đón kiệu bằng những bó đuốc, thắp sáng áp giá về đền. Bấy giờ 6 cây bông của 6 giáp được một cụ già làng buộc túm vào một sợi dây, ròng qua một chiếc đinh ở chính giữa thượng lương đình. Đèn lại bật sáng, trai đinh các giáp vào đình cùng hướng mắt vào 6 cây bông treo lơ lửng ở gian giữa. Làng bắt đầu diễn trò ội ại.
Khi đèn đuốc trong đình vụt tắt thì một cụ già của làng cởi dây thả 6 cây bông treo ở thượng lương xuống. Bấy giờ trong đình tối như bưng, hầu hết chỉ có trai đinh của các giáp. Tuân thủ theo hèm của làng, họ phải cởi hết áo quần ra, chỉ mặc quần đùi (cụ già đóng khố), sau đó trai đinh miệng hô ội ại và lao vào cùng nhảy lên với cướp cây bông xuống. Một ai đó giật được cây bông xuống thì xé bông cướp lấy cái nõ bằng tre trong tâm cây bông chạy ra ngoài đình đem về đền của giáp. Kỳ ội ại, các đinh của giáp nào cướp được ba cái nõ cây bông, giáp đó tâm niệm trong năm làm ăn gặp nhiều may mắn.
Việc cướp được nõ trong đêm tối rất vất vả, bởi vì các trai đinh tranh nhau giằng xé. Ai đó không có may mắn cướp được nõ thì họ nhặt các thanh tre quấn giấy đem về nhà làm phước.
Trò ội ại ở làng Miêng Hạ còn gọi là trò cướp nõ xé bông. Ội ại là một từ hèm rất cổ chưa rõ nghĩa, nhưng về mặt ngữ âm phát ra từ cửa miệng trai đinh nó phản ánh động tác khi mạnh khi nhẹ, tiến tới (ội), lùi (ại). Còn cướp nõ xé bông thì thành ngữ tiếng Việt đã có câu “ba mươi sáu cái nõn (nõ) nường” ám chỉ mỉa mai ai đó đòi hỏi những điều quá đáng bắt nguồn từ một tục cổ ở miền Dị Nậu và Khúc Lạc (Phú Thọ). Xưa, dân làng làm các vật tượng trưng giống đực (nõn), giống cái (nường) bằng gỗ và những người khiêng kiệu rước thần vừa đi, vừa hát: “Ba mươi sáu cái nõn nường cái để đầu giường cái để đầu tay”. Khi kiệu đến nơi thờ, người ta tung nõn nường cho mọi người cướp. Ai được, coi là điềm tốt. Có điều, ở hội làng Miêng Hạ, trò ội ại cướp nõ xé bông không thấy xuất hiện chữ nường mà chữ này đã thay thế bằng chữ bông. Con số 36 đã biến dạng ở Miêng Hạ chỉ có 6 nõ và mỗi nõ được chụp một bông có 36 thanh tre quấn giấy để đầu tua. So với một số nơi có tín ngưỡng phồn thực, trò ội ại ở Miêng Hạ vừa có cướp nõ như ở Dị Nậu (Phú Thọ), vừa có tục tắt đèn như ở hội Giã La (Hoài Đức) vừa có tiếng hô ội ại mà ở vài nơi hô là tùng dí như ở hội làng Vi Cương và Triệu Phú (Vĩnh Phúc) nhưng nét độc đáo ở hội làng Miêng Hạ là trai đinh cởi trần đóng khố cướp nõ xé bông. Phải chăng tục ấy ánh xạ cái thời người nguyên thuỷ đóng khố cởi trần diễn lễ mà sau này người dân vô thức diễn lại.
Bản thân hình cây bông dù đã cách điệu hoá và dân làng Miêng Hạ duy trì tục hèm nhưng không thể cắt nghĩa nổi bản chất của trò ội ại nên giải thích theo suy đoán chủ quan là cây vàng cây bạc và diễn tục cướp vàng cướp bạc. Hình cây bông thực chất là hình ảnh tượng trưng của hai vật âm – dương.
Trai đinh các giáp cướp được nõ lấy làm phấn khởi lắm. Họ mang về thành kính dâng nõ lên bàn thờ thổ thần của giáp ở đền. Sau một hồi tế tạ, họ mang nõ ra hoá (đốt thành than) trước sự reo vui của dân hàng giáp. Ai cũng đều tâm niệm năm đó giáp mình làm ăn gặp nhiều may mắn.
Trò ội ại, trong hội lễ làng Miêng Hạ chính là tâm thức của quần chúng mong trong ngày hội đầu năm của làng âm dương hòa hợp để không ngừng sinh sôi phát triển cho dân an vật thịnh, phồn thực mãi cùng với tiếng pháo cầu mưa, cầu sự mát lành mang đậm dấu ấn của một lễ nghi nông nghiệp cổ ở vùng châu thổ sông Hồng.
Những năm gần đây, trò ội ại ở làng Miêng Hạ được diễn lại thành một trò vui rất sinh động trong ngày hội mang thêm ý nghĩa mới là dân làng cướp vàng cướp bạc lấy may thu hút khách thập phương tới xem và tham gia một sinh hoạt văn hoá độc đáo ở Hà Tây.
Theo: Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam