CHƯƠNG V
CÔNG-VIỆC HỌ TRỊNH LÀM Ở ĐẤT BẮC
1. VIỆC GIAO-THIỆP VỚI NHÀ THANH. Năm quí mão (1663), lúc ấy nhà Minh đã mất rồi, vua nhà Thanh có cho sứ sang dụ vua An-nam về triều-cống. Bấy giờ Trịnh Tạc 鄭 柞 mới cho sứ đem đồ cống lệ sang Yên-kinh 燕 京 (tức là Bắc-kinh) để cầu phong cho vua Lê. Đến năm đinh-mùi (1667) vua Khang-hi nhà Thanh sai sứ sang phong cho vua Lê làm An-nam quốc-vương 安 南 國 王.
Từ đó hai nước thông sứ với nhau như thường. Về sau dẫu có lôi-thôi về những việc giặc-cướp và việc giới-hạn ở phía thượng-du, nhưng bao giờ vua nhà Thanh cũng chủ lấy sự hòa-bình, cho nên việc gì cũng trang-trải xong-xuôi.
2. VIỆC LẤY ĐẤT CAO-BẰNG CỦA HỌ MẠC. Năm ất-sửu (1625) Mạc kính Khoan đã xin về hàng, được phong làm Thái-úy Thông-quốc-công, cho giữ đất Cao-bằng. Song đến năm mậu-dần (1638) Kính Khoan mất, con là Mạc kính Vũ 莫 敬 宇 (có chỗ gọi là Mạc kính Hoàn 莫 敬 完) không nhận chức và không chịu về cống, lại tự xưng làm vua hiệu là Thuận-đức 順 德.
Từ đó họ Mạc cứ thỉnh-thoảng đem quân về cướp phá ở mạn Thái-nguyên, quan quân đánh đuổi nhiều lần, nhưng không trừ hẳn đi được.
Năm đinh-vị (1667) Trịnh Tạc 鄭 柞 đem đại binh cùng các tướng là Đinh văn Tả 丁 文 左, Lê Châu 黎 珠, Lê Hiến 黎 憲 lên đánh lấy đất Cao-bằng. Mạc kính Vũ phải bỏ chạy sang Tàu. Trịnh Tạc mới treo bảng, chiêu-tập dân-sự về làm ăn, và đặt quan cai-trị, lại sai Vũ Vinh 武 榮 làm đốc trấn đất Cao-bằng, Đinh văn Tả làm trấn-thủ đất Thất-tuyền (tức là Thất-khê bây giờ).
Mạc kính Vũ ở bên Tàu, lấy vàng bạc đút lót cho quan nhà Thanh để tâu xin với Thanh-đế bắt họ Trịnh trả lại đất Cao-bằng cho họ Mạc. Thanh-đế cho Kính Vũ về ở Nam-ninh 南 寧, rồi sai sứ sang thương-nghị với Nam-triều về việc ấy. Triều-đình An-nam và sứ nhà Thanh bàn đi bàn lại mãi, sau Trịnh Tạc phải chịu trả lại cho họ Mạc đất 4 châu ở Cao-bằng là châu Thạch-lâm, Quảng-uyên, Thượng-lang, Hạ-lang và triệu quan đốc-trấn Vũ Vinh về.
Về sau Ngô tam Quế 吳 三 桂 phản nhà Thanh ở đất Vân-nam và đất Quảng-tây, Mạc kính Vũ cũng về đảng với Tam Quế mà chống lại nhà Thanh. Đến khi Tam Quế chết rồi, nhà Thanh đã lấy lại đất Quảng-tây, họ Trịnh muốn nhân dịp ấy mà trừ họ Mạc cho xong, bèn một mặt sai Đinh văn Tả 丁 文 左 và Nguyễn hữu Đăng 阮 有 登 lên đánh Mạc kính Vũ. Đến tháng tám năm đinh-tị (1667), Đinh văn Tả lấy được thành Cao-bằng. Mạc kính Vũ cùng họ-hàng chạy sang Long-châu, bị quân nhà Thanh bắt giải sang trả cho An-nam.
Từ khi Mạc mậu Hợp phải bắt, họ Mạc thất thủ Thăng-long rồi, con cháu chạy lên mạn ngược, nhờ thế nước Tàu được giữ đất Cao-bằng, tương truyền được 3 đời, là Mạc kính Cung, Mạc kính Khoan và Mạc kính Vũ; đến nay mới mất hẳn. Dòng-dõi họ Mạc hoặc bị bắt, hoặc về hàng, có nhiều người được tha, cho làm quan với họ Trịnh.
3. QUAN-CHẾ. Trước khi họ Mạc cướp ngôi nhà Lê thì quan-chế vẫn theo như đời Hồng-đức 洪 德, nhưng từ khi nhà Lê trung-hưng về sau, chính quyền về họ Trịnh, cho nên quan-chế có khác ít nhiều. Trước thì trên cùng có quan Tham-tụng 參 從 và quan Bồi-tụng 陪 從 để coi việc chính trị, tức là giữ chức Tể-tướng đời xưa, rồi đến các quan Thượng-thư ở Lục-bộ.
Lục-bộ là: Lại-bộ coi việc thuyên-chuyển các quan viên, việc thăng hàm thưởng tước, việc cách chức giáng-trật, tức là coi mọi việc riêng về quan lại trong nước. Hộ-bộ coi việc điền-thổ và nhân-dân, thuế-khóa, lương-tiền thu vào phát ra. Lễ-bộ coi việc nghi-lễ tế-tự, việc học-hành thi-cử, việc áo-mũ phẩm-phục và phù-ấn, việc làm chương làm biểu, việc đi sứ nước nọ nước kia, việc coi thiên-văn, làm lịch, làm thuốc, bói toán, việc quan-hệ tăng-ni, đạo-sĩ, việc âm nhạc ca-xướng. Binh-bộ coi các võ-quan, quân-lính và việc phòng-bị biên-giới v.v. Hình-bộ coi việc hình-pháp, kiện-tụng. Công-bộ coi việc xây-đắp thành-trì, cung-điện, cầu-cống, đường-xá, sông-ngòi, rừng-núi.
Đến năm mậu-tuất (1718), đời vua Dụ-tông, Trịnh Cương 鄭 棡 lại đặt ra Lục-phiên 六 番 ở bên phủ chúa, cũng như Lục-bộ ở bên nhà vua, để coi mọi việc chính-trị.
Về việc võ-bị thì trước có Ngũ phủ là: Trung-quân-phủ, Đông-quân-phủ, Tây-quân-phủ, Nam-quân-phủ, Bắc-quân-phủ. Mỗi một phủ đặt một Đô-đốc-phủ có quan tả hữu Đô-đốc coi việc cả quân. Trong đời vua Thánh-tông, thì Thanh-hóa, Nghệ-an thuộc về Trung-quân; Hải-dương, An-bang thuộc về Đông quân; Sơn-nam, Thuận-hóa, Quảng-nam thuộc về Nam-quân; Tam-giang, Hưng-hóa thuộc về Tây-quân; Kinh-bắc, Lạng-sơn thuộc về Bắc-quân. Đến năm giáp-thìn (1664) đời vua Huyền tông, Trịnh Tạc 鄭 柞 lại đặt thêm chức Chưởng-phủ-sự 掌 府 事 và Thự-phủ-sự 署 府 事 để coi hết thảy các quân.
Các quan-chức thời bấy giờ, chia ra làm ba ban: văn ban, võ ban và giám ban. Theo thường lệ, thì chỉ có văn ban và võ ban mà thôi. Nhưng từ khi họ Trịnh giữ quyền-bính và lại yêu dùng các nội-giám, thường cho ra làm quan coi việc chính trị, cho nên mới đặt ra giám ban. Ban này đến cuối đời Cảnh-hưng (1740-1786) mới bỏ.
Từ khi họ Trịnh cầm quyền, thì bên nhà vua gọi là Triều-đình 朝 廷, bên phủ chúa gọi là Phủ-liêu 府 僚. Phàm những việc chính-trị và quân-dân đều do bên phủ chúa định-đoạt hết cả, cho nên người ta thường dùng chữ Phủ-liêu, chứ không mấy khi dùng chữ Triều-đình, vì Triều-đình chỉ có cái hư-vị, chứ không có quyền gì nữa.
Sự kén-chọn các quan-lại thì lệ cứ mấy năm lại khảo hạch một lần, ai không xứng chức thì phải giáng xuống.
Khi nào quan viên về hưu-trí thì được ăn dân-lộc, như là quan nhất-phẩm thì mỗi năm được 400 quan tiền dân-lộc của bốn năm xã; quan nhị-phẩm được 300 hoặc 250 quan của hai ba xã; quan tam-phẩm được 250 hoặc 150 quan của một hai xã; quan tứ-phẩm được 150 quan của một xã; quan ngũ-phẩm được 100 quan của một xã.
Đời bấy giờ lại đặt ra một phép rất hay, như là cấm không cho các quan viên lập trang-trại ở chỗ mình làm quan, bởi vì thường có nhiều người ỷ quyền-thế mà hà-hiếp lấy ruộng đất của dân, rồi nuôi những đồ gian-ác làm tôi-tớ, để quấy-nhiễu mọi người, đến nỗi có nhiều nơi dân phải xiêu-tán đi. Ấy cũng là một việc đỡ hại cho dân, và lại có thể giữ liêm cho quan vậy.
Nhưng về sau, từ đời Trịnh Giang 鄭 杠 trở đi, nhà chúa chơi-bời xa-xỉ, lại có nhiều giặc-giã, phải tìm cách lấy tiền, đặt ra lệ cứ tứ-phẩm trở xuống ai nộp 600 quan thì được thăng chức một bậc. Còn những người chân trắng mà ai nộp 2.800 quan thì được bổ tri-phủ, 1.800 quan thì bổ tri-huyện.
Như thế, hễ ai có tiền là được quyền trị dân, chứ không cần có tài-năng gì cả, thành ra cái phẩm-giá của những người làm quan đời bấy giờ cũng kém dần dần đi.
4. VIỆC BINH CHẾ. Khi nhà Lê trung-hưng ra đánh họ Mạc, số quân chỉ có hơn 56.000 người mà thôi. Về sau, từ lúc đánh được họ Mạc rồi, họ Trịnh chia ra làm hai thứ binh: một thứ gọi là ưu-binh 優 兵 thì lấy lính ở ba phủ đất Thanh-hóa và ở bốn phủ đất Nghệ-an, lệ cứ ba suất đinh lấy một tên lính; một thứ gọi là nhất-binh 一 兵 thì lấy lính ở tứ trấn ở đất Bắc là Sơn-nam, Kinh-bắc, Hải-dương, Sơn-tây, lệ cứ 5 suất đinh lấy một tên lính.
Lính ưu-binh thì đóng ở Kinh-thành, kén vào làm quân Túc-vệ để canh giữ những nơi đền vua phủ chúa. Những lính ấy đã được cấp cho công-điền, lại được thêm chức sắc.
Lính nhất-binh thì chỉ để đủ giữ các trấn, và hầu-hạ các quan, còn thì cho về làm ruộng, có khi nào cần dùng đến thì mới gọi, như là về đời Trịnh Doanh 鄭 楹 có lắm giặc-giã, phải đánh-dẹp nhiều nơi, thì mới gọi đến lính tứ trấn, cả thảy được độ chừng 11.500 người, chia ra làm 20 vệ. Sau lại đổi ra làm cơ, làm đội, mỗi cơ có 200 người, để 100 người ở tại ngũ, còn 100 người cho về làm ruộng, rồi cứ lần lượt thay đổi nhau mà về.
5. HÌNH-LUẬT. Hình-luật về đời ấy thì đại-khái cũng như đời Tiền Lê. Hình-pháp thì chia ra làm 5 thứ gọi là ngũ hình; xuy, trượng, đồ, lưu và tử. Nhưng trước thì tội gì cũng được cho chuộc cả, đến đời vua Huyền-tông, Trịnh Tạc 鄭 柞 định lại: trừ những người được dự vào bát-nghị ra, còn ai phạm tội gì cứ chiếu theo tội nặng nhẹ mà luận hình, chứ không cho chuộc nữa.
Trước thì ai đã phải tội lưu, lại phải tội chặt tay nữa. Đến đời vua Dụ-tông, Trịnh Cương 鄭 棡 mới bỏ cái luật chặt tay và đổi lại như là ai phải chặt hai bàn tay và phải lưu đi viễn châu thì cải làm tội đồ chung thân; ai phải chặt một bàn tay và phải lưu ngoại châu thì đổi làm tội đồ 12 năm; ai phải chặt hai ngón tay trỏ và phải lưu cận châu, thì đổi làm tội đồ 6 năm. Còn như ai phạm tội trộm-cướp thì không kể vào lệ ấy.
Trịnh Tạc lại định ra hai phép xử kiện. Chia những việc kiện-tụng ra làm hai thứ. Những việc mưu-sát, đạo, kiếp, thì gọi là đại tụng; những việc hộ, hôn, ẩu đả, thì gọi là tiểu tụng. Quan xử kiện mà không hợp lẽ, thì phải phạt tiền, còn những việc đã xử phải lẽ rồi, người kiện còn đi kiện nữa thì người ấy cũng phải phạt tiền.
Những việc án-mạng, trộm-cướp và những việc hộ, hôn, điền-thổ thì phải theo thứ-tự mà xét xử. Như việc án-mạng thì quan phủ huyện xét, rồi đệ lên để Thừa-ti 丞 司 và Hiến-ti 憲 司 hội đồng xét lại. Việc trộm-cướp, ở Kinh-đô thì do quan Đề-lĩnh 提 領 xét lại, ở các trấn thì do quan Trấn-thủ 鎮 守 xét lại.
Phàm những việc đại-tụng tiểu-tụng mà ở huyện phủ hay là ở Thừa-ti, Trấn-ti, xử không xong, thì đến Hiến-ti xét lại. Ở Hiến-ti không xong, thì đến Giám-sát 監 察 xét lại. Ở Giám-sát và Đề-lĩnh không xong, thì đến Ngự-sử-đài 御 史 臺 xét lại.
Những việc nhân-mạng thì hạn cho 4 tháng, việc trộm-cướp điền-thổ thì 3 tháng, việc hôn-nhân ẩu-đả thì 2 tháng, chứ lệ không cho để lâu, làm mất công việc của dân.
6. THUẾ ĐINH, THUẾ ĐIỀN VÀ SƯU-DỊCH. Trước tệ cứ sáu năm làm sổ hộ-tịch một lần, rồi cứ tùy số dân đinh nhiều ít mà đánh thuế, gọi là « quí 季 » đồng niên mỗi tên đinh cứ tùy hạng, hoặc đóng một quan hay là một quan tám tiền, tức là thuế thân. Đến năm kỷ-dậu (1669) đời vua Huyền-tông, quan Tham-tụng là ông Phạm công Trứ 范 公 著 xin đặt ra phép bình lệ 平 例, nghĩa là làm sổ đinh nhất định một lần, rồi làng nào phải đóng bao nhiêu suất đinh, cứ theo như thế mà đóng mãi, chứ có đẻ thêm ra cũng không kể, mà có chết đi cũng không trừ.
Lập phép ấy là để cho dân khỏi phải làm sổ, mà quan cũng khỏi phải tra xét, nhưng phải một điều bất tiện là về sau số đinh hơn kém bao nhiêu, quan không biết được nữa. Đến năm quí-tị (1713) đời vua Dụ-tông, sử chép rằng số dân nội-tịch phải đóng thuế cho nhà vua cả thảy chỉ 206.315 suất mà thôi.
Còn như thuế điền thì năm kỷ-hợi (1719) đời vua Dụ-tông, Trịnh Cương 鄭 棡 sai các quan phủ huyện và quan Thừa-chính, Hiến-sát làm việc đạc điền để mà chia tiền thuế cho các dân-xã cho đều. Lệ bấy giờ cứ đo công điền công thổ mà đánh thuế, gọi là « thuế 税 », chia ra làm ba hạng. Hạng nhất mỗi mẫu đồng niên đóng 1 quan, hạng nhì 8 tiền, hạng ba 6 tiền.
Những sưu-dịch như là việc tế-tự trong đền vua phủ chúa, việc sửa-sang trường thi, việc làm cầu-cống, đắp đường-sá, giữ đê-điều v.v.. thì cứ tùy nghi mà bổ cho các suất đinh để lấy tiền mà cung-ứng cho đủ.
Ấy, các thứ thuế trước đánh là vậy. Đến năm quí-mão (1723) quan Tham-tụng là ông Nguyễn công Hãng 阮 公 沆 theo phép tô 租 phép dung 庸 và phép điệu 調 của nhà Đường mà châm-chước, sửa-sang lại, như sau này:
Phép tô, tức là phép đánh thuế điền-thổ, cứ mỗi mẫu công-điền là phải nạp 8 tiền thuế, mà ruộng nào cấy hai mùa thì chia ba, quan lấy một phần thóc. Những đất bãi của quan, cứ mỗi mẫu nạp thuế 1 quan 2 tiền; chỗ nào trồng dâu thì nộp một nửa bằng tơ, chỗ nào không trồng dâu thì nộp cả bằng tiền.
Các ruộng tư-điền ngày trước không đánh thuế, đến bấy giờ mới đánh: ruộng hai mùa mỗi mẫu 3 tiền, ruộng một mùa mỗi mẫu 2 tiền.
Phép dung, tức là phép đánh thuế thân, cứ mỗi suất đinh là đồng niên đóng 1 quan 2 tiền. Những người sinh-đồ, lão-hạng và hoàng-đinh thì đóng một nửa.
Phép điệu, tức là phép bắt dân đóng tiền sưu-dịch, cứ mỗi một suất đinh, một năm 2 mùa, mùa hạ phải đóng 6 tiền, mùa đông phải đóng 6 tiền. Quan lấy tiền ấy mà làm các việc, không phiền đến dân nữa.
7. CÁC THỨ THUẾ. Đời bấy giờ đánh thuế các thứ thổ sản, thuế mỏ, thuế đò, thuế chợ, v.v.. nhưng mà những thuế ấy, khi đánh khi thôi, không có nhất định.
1. Thuế tuần-ti. Các thuyền-bè chở hàng-hóa đi buôn bán ở trong sông cũng phải chịu thuế. Trong nước lập ra cả thảy 23 sở tuần-ti để thu thuế: như tre gỗ thì cứ 10 phần đánh thuế một phần; những đồ tạp-hóa thì 40 phần đánh thuế một phần.
2. Thuế muối. Năm tân-sửu (1721) Trịnh Cương đặt quan Giám-đương 監 當 để đánh thuế muối, cứ 10 phần, quan lấy 2 phần. Những người buôn muối phải lĩnh thẻ của quan Giám-đương, thì mới được mua muối, mà trước phải mua của quan đã, rồi sau mới được mua của những người làm muối. Vì đánh thuế như thế, cho nên giá muối cao đến một tiền một đấu muối, dân-sự ăn-uống khổ-sở. Bởi vậy đến năm nhâm-tí (1732) Trịnh Giang bỏ thuế muối không đánh nữa.
Đến năm bính-thìn (1746) Trịnh Doanh lại lập lại phép đánh thuế muối, cứ chia ra 50 mẫu ruộng muối làm một bếp, mỗi bếp phải nộp 40 hộc muối thuế, mỗi một hộc đánh giá là 180 đồng tiền, tức là ba tiền.
3. Thuế thổ-sản. Năm giáp-thìn (1724), Trịnh Cương định lệ đánh thuế các thổ-sản, như là vàng, bạc, đồng, kẽm, sơn, diêm tiêu, than gỗ, than đá, tre, gỗ, tơ lụa, quế, cá, mắm, các đồ dụng-vật như là rượu, mật, dầu, và các đồ thập-vật như là giấy, chiếu, vải, v.v…
8. SỔ CHI THU. Về thời Trịnh Giang làm chúa, có lắm giặc-giã phải chi-tiêu nhiều việc, cho nên năm kỷ-mùi (1731) các quan xin đặt quan để cùng với Hộ-phiên mà làm sổ biên rõ đồng niên thu vào được bao nhiêu và phát ra mất bao nhiêu, để liệu sự chi-dụng cho vừa.
9. VIỆC KHAI MỎ. Nước ta từ đời bấy giờ ở Tuyên-quang thì có mỏ đồng ở Tụ-long, mỏ bạc ở Nam-xương và ở Long-sinh. Ở Hưng-hóa thì có mỏ đồng ở Trinh-lan và Ngọc-uyển. Ở Thái-nguyên thì có mỏ đồng ở Sáng-mộc, Yên-hận, Liêm-tuyền, Tống-sinh, Vũ-nông; mỏ vàng ở Kim-mã, Tam-lộng; mỏ kẽm ở Cồn-minh. Ở Lạng-sơn thì có mỏ đồng ở Hoài-viễn.
Những mỏ ấy đều là người Tàu sang khai cả, bao nhiêu quyền-lợi về tay người Tàu hết, của 10 phần nhà nước không được một. Mà những phu Tàu sang làm mỏ thường hay quấy-nhiễu dân-sự. Tuy rằng năm đinh-dậu (1717) Trịnh Cương đã định lệ rằng những người Tàu sang khai mỏ: chỗ đông lắm chỉ được đến 300 người, chỗ đông vừa 200 người, chỗ ít 100 người mà thôi. Thế mà về sau có nơi phu-khách đông đến hàng vạn người, rồi sinh sự đánh nhau, thường phải dùng đến binh-lính đi đánh-dẹp mãi mới xong.
10. VIỆC ĐÚC TIỀN. Nhà Hậu-Lê trung-hưng lên rồi, vẫn tiêu tiền Hồng-đức, và ở trấn nào cũng có sở đúc tiền; nhưng vì có lắm sự nhũng-lạm cho nên đến năm quí-dậu (1753) Trịnh Doanh mới bỏ sở đúc tiền ở các trấn, mà chỉ để hai sở gần đất Kinh-sư mà thôi. Đến năm bính-thân (1776) đời Cảnh-hưng vua Hiến-tông, khi họ Trịnh đã lấy được đất Thuận-hóa rồi, lại mở lò đúc tiền ở Phú-xuân, đúc ra 3 vạn quan tiền Cảnh-hưng nữa.
Đời bấy giờ cũng có đúc ra bạc lạng để tiêu dùng. Mỗi một lạng là 10 đồng, mỗi đồng giá hai tiền. Bạc ấy chặt ra mà tiêu cũng được.
11. SỰ ĐONG-LƯỜNG. Sự đong-lường thì trước vẫn theo lối cũ, cứ 6 hạp 合 là một thăng 升, nhưng từ năm giáp-thìn (1664) ông Phạm công Trứ định lại, lấy một cái ống gọi là hoàng-chung-quản 黄 鐘 管 làm chừng. Cái ống ấy đựng được 1.200 hột thóc đen, gọi là một thược 龠, rồi cứ 10 thược làm một hạp, 10 hạp làm một thăng, 10 thăng làm một đấu, 10 đấu làm một hộc.
12. VIỆC IN SÁCH. Người nước ta học chữ Nho đã lâu mà những sách học như là Tứ-thư, Ngũ-kinh toàn thị dùng sách in của Tàu cả. Năm giáp-dần (1734) đời vua Thuần-tông, Trịnh Giang mới bắt khắc bản in, in các sách phát ra mọi nơi và cấm không cho mua sách in bên Tàu nữa. Ấy cũng là một sự lợi cho sự tài-chánh của nước ta.
13. VIỆC HỌC-HÀNH THI-CỬ. Sự học-hành về đời Hậu-Lê, thì đại-khái cũng giống như đời Tiền-Lê, trong nước ở đâu cũng lấy Nho-học làm trọng. Ở Quốc-tử-giám thì đặt quan Tế-tửu và quan Tư-nghiệp để làm giảng-quan, mỗi tháng một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập.
Còn việc thi-cử là việc nhà nước chọn lấy nhân-tài để dùng làm việc nước, thì đời nào cũng có. Từ khi nhà Mạc và nhà Lê tranh nhau ngôi vua, Bắc-triều họ Mạc vẫn mở khoa thi ở Thăng-long; Nam-triều họ Lê vì bận việc binh, cho nên đến mãi năm canh-thìn (1580) mới mở khoa thi Hội ở Tây-đô; từ đó về sau cứ ba năm một kỳ thi Hội, nhưng mà cách-thức thi-cử còn sơ-lược, đến năm giáp-thìn (1664) đời vua Huyền-tông, Trịnh Tạc mới định lại qui thức thi Hội.
Còn như thi Hương, thì đến năm mậu-ngọ (1678) mới định các điều-lệ rõ-ràng. Từ đó cứ ba năm một kỳ thi Hương: Thanh-hóa, Nghệ-an, Sơn-nam, Sơn-tây, Kinh-bắc, Hải-dương, Thái-nguyên, Hưng-hóa, Tuyên-quang, Lạng-sơn, Yên-quảng đều có trường thi cả. Nhưng mà sự thi Hương bấy giờ hồ-đồ lắm, không nghiêm như đời Hồng-đức. Như là về đời vua Dụ-tông, niên-hiệu Bảo-thái thì đặt lệ ai đi thi phải nộp tiền minh-kinh 明 經 để lấy tiền làm nhà trường và khoản-đốn quan-trường.
Đến năm canh-ngọ (1750) đời Cảnh-hưng, nhà nước thiếu tiền, lại đặt ra lệ thu tiền thông-kinh 通 經, hễ ai nộp ba quan thì được đi, mà không phải khảo-hạch. Thành ra lúc bấy giờ những người đi làm ruộng, đi buôn, đi bán thịt, ai cũng được nộp quyển vào thi, đến nỗi lúc vào thi, người tranh nhau vào trường xéo-đạp lẫn nhau, có người chết. Vào ở trong trường người thì dùng sách, kẻ đi thuê người làm bài, học-trò với quan-trường thì thông với nhau, thành ra cái chợ thi. Phép thi cử bấy giờ thật là bậy.
14. TRƯỜNG HỌC VÕ. Đời vua Dụ-tông, Trịnh Cương lại mở ra trường học võ, đặt quan giáo-thụ để dạy cho con-cháu các quan vào học võ-kinh chiến-lược, cứ mỗi tháng một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập. Mùa xuân mùa thu thì tập võ-nghệ, mùa đông mùa hạ thì tập võ-kinh.
Lại đặt ra lệ 3 năm một lần thi võ. Thi thì đại-khái là phải bắn cung, múa giáo, múa gươm, phi ngựa mà bắn cung và chạy bộ mà bắn cung, rồi sau cùng hỏi nghĩa sách để xét học-lực, hỏi phương-lược để xét tài-năng.
Năm canh-thân (1740) Trịnh Doanh lập võ-miếu, chính vị thì thờ Vũ-vương, Khương-thái-công, Tôn Võ-tử, Quản-tử, v.v… Ở đàng sau thì thờ Hưng-đạo đại-vương Trần quốc Tuấn, và lại lập miếu riêng thờ Quan-công. Cứ xuân thu hai kỳ tế-lễ.
15. LÀM QUỐC SỬ. Từ khi ông Vũ Quỳnh 武 瓊 làm sách Đại Việt thông-giám 大 越 通 鑑, mãi đến đời vua Lê Huyền-tông nhà Hậu-Lê, Trịnh Tạc mới sai quan Tham-tụng là Phạm công Trứ 范 公 著 soạn sách Việt-sử toàn-thư 越 史 全 書, kể từ vua Trang-tông nhà Hậu-Lê cho đến vua Thần-tông, chia làm 23 quyển; nhưng mà bộ sử ấy không in. Đến năm bính-thìn (1676) đời vua Hi-tông sai Hồ sĩ Dương 胡 士 楊 xét lại bộ quốc-sử, nhưng chẳng bao lâu ông ấy mất, lại sai Lê Hi 黎 僖 và Nguyễn quí Đức 阮 貴 德 chép nối từ vua Huyền-tông cho đến vua Gia-tông, thêm vào 13 quyển, gọi là Quốc-sử thực-lục 國 史 實 錄.
Năm ất-vị (1775) đời Cảnh-hưng, Trịnh Sâm sai Nguyễn Hoàn 阮 俒, Lê quí Đôn 黎 貴 惇, Ngô thời Sĩ 吳 時 仕, Nguyễn Du 阮 攸 soạn quốc-sử, chép thêm từ Hi-tông cho đến đời Ý-tông, gọi là Quốc-sử tục-biên, cả thảy là 6 quyển.
16. SỰ ĐÁNH-DẸP GIẶC-GIÃ TRONG NƯỚC. Về thời Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương làm chúa, thì ông nào cũng hết lòng lo việc trị dân, và lại nhờ có những người tôi giỏi như Phạm công Trứ 范 公 著, Nguyễn công Hãng 阮 公 沆 v.v… đều hết sức giúp-đỡ, cho nên sửa-sang được nhiều việc, nước được yên trị. Nhưng mà từ khi Trịnh Giang lên nối nghiệp chúa, giết vua Lê, hại cả các quan đại-thần như Nguyễn công Hãng, Lê anh Tuấn 黎 英 俊 và làm lắm điều tàn-ác. Tính ông ấy đã tàn-ngược lại hay tiêu-dùng xa-xỉ, thuế-má một ngày một nhiều, sưu-dịch một ngày một nặng, dân-tình khổ-sở, giặc-giã nổi lên khắp cả mọi nơi, đường-sá trạm-dịch đi không được, phải làm đồn hỏa hiệu ở trên đỉnh núi để phòng khi có việc gì thì đốt lửa báo tin.
Bấy giờ trong triều thì có mấy người tôn-thất như là Lê duy Mật 黎 維 樒, Lê duy Qui 黎 維 槻, Lê duy Chúc 黎 維 祝 cùng với mấy người triều-thần là Phạm công Thế 范 公 勢, Võ Thước, 武 鑠 định đốt kinh-thành để trừ họ Trịnh, nhưng chẳng may việc lộ ra phải bỏ chạy. Ở ngoài các trấn thì chỗ nào cũng có giặc, ở Hải-dương thì có Nguyễn Tuyển 阮 選, Nguyễn Cừ 阮 遽 nổi lên ở làng Ninh-xá 寧 舍 (thuộc huyện Chí-linh), Võ trác Oánh 武 卓 瑩 nổi lên ở làng Mộ-trạch 慕 澤 (thuộc huyện Đường-an), ở đất Sơn-nam thì có Hoàng công Chất 黄 公 質, đều lấy tiếng phù Lê diệt Trịnh làm cớ, bởi vậy cho nên dân mặt đông-nam mang bừa vác gậy đi theo giặc. Toán nào đông thì kể có hàng vạn người, toán nào ít thì cũng có đến hàng trăm hàng nghìn người, rồi đi cướp-phá ở các hương-thôn và vây các thành ấp, quan quân đánh dẹp không được.
Đang lúc giặc cướp như thế, Trịnh Giang cứ dâm-dật vô độ, lại đào hầm làm nhà ở dưới đất để cho khỏi sợ sấm sét, còn việc chính-trị thì để cho những hoạn-thần là bọn Hoàng công Phụ 黄 公 輔 chuyên quyền làm bậy. Các quan ở phủ-liêu là Nguyễn quí Cảnh 阮 貴 憼, Nguyễn công Thái 阮 公 寀, Võ công Tể 武 公 宰 bèn truất Trịnh Giang mà lập em là Trịnh Doanh lên làm chúa, để lo việc đánh-dẹp cho yên giặc-giã.
Đời bấy giờ giặc cướp thì nhiều, nhưng mà những giặc to phải đánh lâu, thì có Nguyễn Tuyển 阮 選, Nguyễn Cừ 阮 遽 và Võ trác Oánh 武 卓 瑩 ở đất Hải-dương; Hoàng công Chất 黄 公 質, Võ đình Dung 武 廷 容 ở Sơn-nam; Nguyễn danh Phương 阮 名 芳, Nguyễn Diên 阮 延, Tế 濟, Bồng 蓬 ở Sơn-tây; Nguyễn hữu Cầu 阮 有 求 ở mặt đông-nam; Lê duy Mật 黎 維 樒 ở mặt Thanh-hóa và Nghệ-an. May lúc ấy lại có những quan đánh giặc giỏi như Hoàng nghĩa Bá 黄 義 伯, Hoàng ngũ Phúc 黄 五 福, Phạm đình Trọng 范 廷 重, Nguyễn Phan 阮 潘, Bùi thế Đạt 裴 世 達 v.v. cho nên Trịnh Doanh và Trịnh Sâm mới dần dần dẹp yên được các nơi.
Giặc Ngân-già. Năm canh-thân (1740) trong khi đất Hải-dương, ở làng Ninh-xá, có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ làm loạn, thì đất Sơn-nam, ở làng Ngân-già, có Vũ đình Dung, Đoàn danh Chấn, Tú Cao, cướp-phá rất dữ, giết cả quan Đốc-lĩnh là Hoàng kim Qua 黄 金 瓜. Thế giặc mạnh lắm, Trịnh Doanh phải tự làm tướng đem binh đi đánh, bắt được Võ đình Dung đem chém, và đổi tên xã Ngân-già làm Lai-cách (nay là Gia-hòa).
Giặc Ninh-xá. Trước hết Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Võ trác Oánh và Nguyễn Diên dấy binh từ năm kỷ-mùi (1739) làm loạn ở Hải-dương, rồi vẫy-vùng ở đất Từ-sơn, Thuận-thành, Nam-sách và Hồng-châu. Nguyễn Cừ thì giữ đất Đỗ-lâm ở Gia-phúc, Nguyễn Tuyển thì giữ núi Phao-sơn ở Chí-linh, làm đồn, xây lũy liên-lạc với nhau, quân lính kể có hàng mấy vạn người, quan quân đi đánh có nhiều người phải bắt.
Năm tân-sửu (1745) quan Thống-lĩnh Hải-dương là Hoàng nghĩa Bá 黄 義 伯 phá được các đồn của giặc ở Phao-sơn, ở Ninh-xá và ở Gia-phúc; Nguyễn Tuyển thua chạy rồi chết, Võ trác Oánh không biết đi đâu mất. Còn Nguyễn Cừ thì chạy lên Lạng-sơn được mấy tháng lại về Đông-triều, nhưng vì hết lương phải vào nấp ở núi Ngọa-vân-sơn, bị quan Hiệp-đồng là ông Phạm đình Trọng 范 廷 重 bắt được đóng cũi đem về kinh làm tội. Từ đó giặc Cừ và giặc Tuyển mới tan.
Nguyễn Hữu Cầu. Nguyễn hữu Cầu 阮 有 求, tục gọi là quận He, người Hải-dương, trước đi ăn cướp, sau theo Nguyễn Cừ làm giặc. Đến khi Nguyễn Cừ bị bắt rồi, Nguyễn hữu Cầu đem đồ-đảng về giữ núi Đồ-sơn và đất Vân-đồn. Năm quí-hợi (1743), Hữu Cầu giết được quan Thủy-đạo đốc-binh là Trịnh Bảng 鄭 榜, rồi tự xưng làm Đông-đạo Thống-quốc Bảo-dân Đại-tướng-quân, thanh-thế lừng-lẫy ở mạn ấy. Sau bị Hoàng ngũ Phúc đem binh đến vây ở núi Đồ-sơn, Hữu Cầu phá vây ra, về đánh lấy thành Kinh-bắc, quan Trấn-phủ là Trần đình Cẩm 陳 廷 錦 và quan Đốc-đồng là Võ phương Đề đánh thua ở Thị-cầu phải bỏ ấn-tín mà chạy; ở Kinh-sư, được tin ấy rất lấy làm náo-động.
Hoàng ngũ Phúc đem binh về, cùng với Trương Khuông 張 洭 lấy lại thành Kinh-bắc, nhưng thế Nguyễn hữu Cầu vẫn mạnh, phá quân của Trương Khuông ở làng Ngọc-lâm (thuộc huyện Yên-dũng), đuổi quân của quan Thống-lĩnh Đinh văn Giai 丁 文 佳 ở Xương-giang (thuộc huyện Bảo-lộc) rồi lại về vây dinh Thị-cầu.
Trịnh Doanh sai Hoàng ngũ Phúc và Phạm đình Trọng đem binh đến đánh Hữu Cầu ở Xương-giang, giết được tướng của giặc là tên Thông 通, lấy được quân-nhu chiến-mã thật là nhiều.
Nguyễn hữu Cầu là một người kiệt-hiệt nhất trong bọn làm giặc thời bấy giờ, mà lại quỉ-quyệt, ra vào bất trắc lắm: có khi bị vây hàng mấy vòng, mà chỉ một mình một ngựa phá vây ra, rồi chỉ trong mấy ngày lại có hàng vạn người đi theo. Vì rằng ngày thường cướp được thóc-gạo của thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên đi đến đâu cũng có người theo, muốn lấy bao nhiêu quân-lương cũng có.
Các tướng-sĩ ai cũng sợ, duy chỉ có ông Phạm đình Trọng là đánh được Hữu Cầu mà thôi, cho nên Hữu Cầu đào mã mẹ ông ấy đổ xuống sông. Từ đó Phạm đình Trọng thề không cùng sống ở đời với Nguyễn hữu Cầu. Cũng vì lẽ ấy cho nên năm bính-dần (1749) Hữu Cầu cho người đem vàng về đút lót cho Đỗ thế Giai 杜 世 佳 và người nội-giám là Nguyễn phương Đĩnh 阮 芳 挺 để xin hàng, Trịnh Doanh thuận cho và lại phong cho làm Hướng-nghĩa-hầu 向 義 侯, lại sai quan Thiêm-tri 僉 知 là Nguyễn phi Sảng 阮 丕 爽 đem tờ dụ ra bảo Phạm đình Trọng đừng đánh Nguyễn hữu Cầu nữa. Phạm đình Trọng khăng khăng một mực không chịu, bảo Nguyễn phi Sảng rằng: « Những người làm tướng ở ngoài dẫu có mệnh vua cũng có điều không nên chịu. Ông vâng mệnh vua đi gọi giặc về hàng thì ông cứ đi, tôi vâng mệnh vua đi đánh giặc, thì tôi cứ đánh ». Nói xong, cất quân đi ngay.
Lúc ấy Phạm đình Trọng có mộ người ở huyện Thanh-hòa, huyện Tú-kỳ, huyện Vĩnh-lại và huyện Thượng-hồng, đặt làm 4 cơ, giao cho hai người thủ-hạ cai-quản. Ở phủ-liêu bọn Đỗ thế Giai nhân lấy điều ấy mà nói gièm với Trịnh Doanh. Nhưng Trịnh Doanh vốn biết Phạm đình Trọng là người trung-thành, không nói gì đến việc ấy, lại làm một bài thơ đưa ra cho ông ấy để ông ấy yên lòng.
Nguyễn hữu Cầu tuy đã xin về hàng, nhưng vẫn cứ cướp-phá các nơi, sau lại về phá ở đất Sơn-nam. Một hôm Phạm đình Trọng đánh đuổi Hữu Cầu ở Cẩm-giàng, Hữu Cầu nói với thủ-hạ rằng: « Ta vừa mới thua, có tin về Kinh, tất nhiên không ai phòng bị, nay ta lẻn về đánh có lẽ được. » Nói đoạn, ngay đêm hôm ấy kéo quân về bến Bồ-đề. Đến nơi thì trời vừa sáng; có tin báo, Trịnh Doanh tự đem quân ra giữ ở bến Nam-tân. Phạm đình Trọng biết tin ấy lập tức đem quân về đánh mặt sau, Hữu Cầu lại thua bỏ chạy.
Từ khi thua trận Bồ-đề rồi, Hữu Cầu về cùng với Hoàng công Chất cướp ở huyện Thần-khê và Thanh-quan. Phạm đình Trọng và Hoàng ngũ Phúc lại đem binh xuống đánh đuổi.
Hoàng công Chất chạy vào Thanh-hóa, Hữu Cầu chạy vào Nghệ-an hợp đảng với tên Diên 延 ở Hương-lãm (thuộc huyện Nam-đường). Phạm đình Trọng đem quân vào đánh phá trại giặc, rồi đuổi Hữu Cầu ra đến làng Hoàng-mai bắt được, đóng cũi đem về nộp chúa Trịnh. Bấy giờ là năm tân-vị (1751) tức là năm Cảnh-hưng thứ 12.
Nguyễn danh Phương. Năm canh-thân (1740) tên Tế và tên Bồng làm loạn ở đất Sơn-tây, quan Chinh-tây đại-tướng-quân là Võ tá Lý 武 佐 理 đánh bắt được cả hai tên ấy ở huyện An-lạc (thuộc phủ Vĩnh-tường). Bấy giờ thủ-hạ tên Tế là Nguyễn danh Phương, tục gọi là quận Hẻo, đem dư-đảng về giữ núi Tam-đảo. Một mặt thì mộ quân trữ lương và một mặt thì cho người về nói dối xin hàng.
Lúc bấy giờ tên Cầu tên Chất đang làm loạn ở phía đông-nam, cho nên Trịnh Doanh cũng tạm cho hàng.
Năm giáp-tí (1744) tên Phương đem hơn một vạn quân về giữ đất Việt-trì, sang cướp-phá ở bên huyện Bạch-hạc. Bấy giờ quan Đốc-suất Sơn-tây là Văn đình Ức 文 廷 億 đem binh đến vây đánh, Danh Phương chạy sang giữ làng Thanh-linh (huyện Bình-xuyên, đất Thái-nguyên). Từ đó Danh Phương lập đại đồn ở núi Ngọc-bội (giáp huyện Bình-xuyên và huyện Tam-dương), trung đồn ở đất Hương-canh, ngoại đồn ở đất Ức-kỳ, rồi tự xưng là Thuận-thiên khải-vận đại-nhân, làm cung-điện, đặt quan-thuộc, thu các thứ thuế ở đất Tuyên-quang, thanh-thế lừng-lẫy trong non 10 năm trời, thành ra một nước riêng trong nước Nam vậy.
Năm canh-ngọ (1750) Trịnh Doanh tự đem đại quân đi đường Thái-nguyên đến đánh phá được đồn Ức-kỳ. Khi quân tiến lên đến đồn Hương-canh, giặc bắn súng, đạn ra như mưa, quan quân không tiến lên được. Trịnh Doanh mới lấy gươm trao cho ông Nguyễn Phan 阮 潘 mà bảo rằng: « Đồn này phá không được thì lấy quân-pháp mà trị! » Nguyễn Phan đem quân sấn vào rồi cởi áo chiến-bào ra, xuống ngựa đi bộ, và bảo những người thủ-hạ rằng: « Quân-sĩ có tên ở trong sổ-sách, việc gì đã có quân-pháp. Chúng bay là người riêng của ta mà hôm nay là buổi ta phải bỏ mình để giúp nước, và lại chính là ngày chúng bay đền ơn cho ta. Vậy ai có cha già con dại, thì cho lui ra, còn thì nên cùng với ta mà liều một trận sống chết để báo đền ơn nước, cho khỏi phụ cái tiếng râu-mày! ». Thủ-hạ không ai chịu lui, đều xin cùng xông vào, phá được đồn Hương-canh. Doanh Phương rút quân về giữ đồn Ngọc-bội, quân Trịnh Doanh tiến lên đuổi đánh. Nguyễn Phan sai thủ-hạ cầm đồ đoản binh cho tự tiện đi trước mà vào, đại quân theo sau. Giặc giữ không nổi bỏ chạy tan cả. Nguyễn danh Phương chạy vào núi Độc-tôn, quan quân đuổi đến làng Tĩnh-luyện ở huyện Lập-thạch thì bắt được. Trịnh Doanh đem quân về Kinh-đô, đi đến làng Xuân-hi, huyện Kim-anh, gặp người của Phạm đình Trọng giải Nguyễn hữu Cầu đến. Trịnh Doanh bèn mở tiệc khao quân, bắt tên Phương dâng rượu, tên Cầu thổi kèn, ba quân hôm ấy thật là vui vẻ.
Về đến Kinh-sư, tên Cầu và tên Phương đều phải chém cả.
Hoàng công Chất. Hoàng công Chất cùng với Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ nổi lên một lúc. Trước phá ở đất Sơn-nam về hạt Khoái-châu và Xuân-trường. Đến năm ất-sửu (1745) lại bắt được và giết quan trấn-thủ Sơn-nam là Hoàng công Kỳ 黄 公 琦, sau vì quan quân đuổi đánh, Công Chất chạy vào Thanh-hóa rồi ra Hưng-hóa cùng với tên Thành 成 làm loạn ở vùng ấy. Năm tân-tỵ (1761) tên Thành bị quan quân bắt được, tên Chất chạy lên giữ động Mãnh-thiên 猛 天 峒 (phía bắc Hưng-hóa) rồi chiếm giữ cả mấy châu gần đấy, đồ-đảng có hàng vạn người. Từ đó tên Chất cứ cướp phá ở đất Hưng-hóa và đất Thanh-hóa. Mãi đến năm Kỷ-sửu (1769) Trịnh Sâm mới sai quan Thống-lĩnh là Đoàn nguyễn Thục 段 阮 俶 đem quân Sơn-tây lên đánh động Mãnh-thiên. Khi quan quân lên đến nơi thì Hoàng công Chất đã chết rồi, con là Hoàng công Toản 黄 公 纘 chống giữ không nổi, bỏ chạy sang Vân-nam. Đồ-đảng tan cả.
Lê duy Mật. Năm mậu-ngọ (1738) đời vua Ý-tông, bọn hoàng-thân là Lê duy Mật, Lê duy Quí và Lê duy Chúc định mưu giết họ Trịnh, nhưng chẳng may sự không thành phải bỏ chạy vào Thanh-hóa. Sau Duy Qui và Duy Chúc phải bệnh mất, còn Duy Mật giữ đất thượng-du phía tây-nam. Những người đồng mưu với Duy Mật đều bị họ Trịnh bắt được giết cả. Bấy giờ Duy Mật có bắt được Phạm công Thế 范 公 勢 đem ra hỏi rằng: « Ông là người khoa-giáp sao lại theo nghịch? » — Công Thế cười mà nói rằng: « Đã lâu nay danh-phận không rõ, lấy gì mà phân thuận nghịch? » Nói rồi, giương cổ ra chịu hình.
Lê duy Mật từ khi chạy về Thanh-hóa, chiêu-tập binh-sĩ, rồi từ năm canh-thân (1740) là Cảnh-hưng năm đầu, về đánh ở đất Hưng-hóa và Sơn-tây, sau lại cùng với giặc là tên Tương giữ đồn Ngọc-lâu (thuộc huyện Thạch-thành). Đến khi tướng họ Trịnh phá được đồn Ngọc-lâu, tên Tương tử trận, Lê duy Mật lại chạy vào Nghệ-an, rồi sang Trấn-ninh giữ núi Trình-quang 呈 光 làm căn-bản.
Năm giáp-tí (1764) Lê duy Mật sai người đem thư vào cầu cứu với chúa Nguyễn là Vũ-vương. Nhưng chúa không muốn gây sự với họ Trịnh, cho nên không giúp.
Năm đinh-hợi (1767) được tin Trịnh Doanh vừa mất, con là Trịnh Sâm lên làm chúa, Lê duy Mật đem quân về đánh ở đất Hương-sơn và đất Thanh-chương rồi lại rút về Trấn-ninh. Trịnh Sâm cho người đưa thư sang vỗ-về không được, mới quyết ý dùng binh để dứt mối loạn.
Năm kỷ-sửu (1769) Trịnh Sâm sai Bùi thế Đạt 裴 世 達 làm thống-lĩnh đất Nghệ-an, Nguyễn Phan 阮 潘 làm chánh-đốc-lĩnh đất Thanh-hóa, Hoàng đình Thể 黄 廷 體 làm đốc-binh đất Hưng-hóa, cả ba đạo đều tiến sang đánh Trấn-ninh. Khi quân của Bùi thế Đạt và Nguyễn Phan đến vây Trình-quang. Lê duy Mật định cứ giữ hiểm không ra đánh. Không ngờ người con rể là Lại thế Chiêu 賴 世 招 làm phản, mở cửa lũy cho quân họ Trịnh vào. Duy Mật biết có nội biến, bèn cùng với vợ con tự đốt mà chết.
*
* *
Tóm lại mà xét, thì những công-việc của họ Trịnh sửa đổi ở miền Bắc cũng nhiều, và có thể chia ra làm ba thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất vào khoảng Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng và Trịnh Tráng. Lúc bấy giờ còn phải đánh họ Mạc ở phía Bắc, rồi lại chống với họ Nguyễn ở phía Nam, cho nên trong thời-kỳ ấy chỉ có việc chiến-tranh ở ngoài mà thôi, còn những công-việc trong nước không sửa-sang được mấy.
Thời-kỳ thứ hai là vào khoảng Trịnh Tạc, Trịnh Căn và Trịnh Cương. Lúc bấy giờ việc chiến-tranh đã yên, trong nước bình-trị, cho nên trong thời-kỳ ấy các chúa mới sửa-sang và chỉnh-đốn lại những phép-tắc, luật-lệ, việc thuế-khóa, sự học-hành, thi-cử, v.v.
Thời-kỳ thứ ba là vào khoảng Trịnh Giang, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm. Vì Trịnh Giang thất chính cho nên trong thời-kỳ này có lắm giặc-giã, quan quân phải đánh đông dẹp bắc trong ba bốn năm trời, thành ra không làm được việc gì ích lợi, đến nỗi dân nghèo nước yếu, chính-trị điêu-tàn, bởi vậy cho nên chẳng bao lâu mà nhà Trịnh đổ, nhà Lê cũng mất.
Hậu Lê Thế-Phổ 後 黎 世 譜
Lam-quốc-công Lê-Trừ (anh vua Thái-tổ) 藍 國 公 黎 除 | Chiêu-tông Ỷ (Tiền-Lê) 昭 宗 椅 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Lê-Khang 黎 康 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
1. Trang-tông Duy-Ninh 莊 宗 維 寧 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Lê-Thọ 黎 壽 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Lê Duy-Thiệu 黎 維 紹 | 2. Trung-tông Duy-Thuyên 中 宗 維 暄 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Lê Duy-Khoáng 黎 維 絖 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
3. Anh-tông Duy-Bang 英 宗 維 邦 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
4. Thế-tông Duy-Đàm 世 宗 維 潭 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Duy-trì 維 持 | 5. Kính-tông Duy-Tân 敬 宗 維 新 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
6. Thần-tông Duy-Kỳ 神 宗 維 祺 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
7. Chân-tông Duy-Hữu 真 宗 維 祐 | 8. Huyền-tông Duy-Vũ 玄 宗 維 禑 | 9. Gia-tông Duy-Hội 嘉 宗 維 禬 | 10. Hi-tông Duy-Hợp 熙 宗 維 祫 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
11. Dụ-tông Duy-Đường 裕 宗 維 禟 | Duy-Chúc 維 祝 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
12. Thuần-tông Duy-Tường 純 宗 維 祥 | 13. Duy-Phương đế 維 祊 帝 | 14. Ý-tông Duy-Thì 懿 宗 維 祳 | Duy-Mật 維 樒 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
15. Hiển-tông Duy-Diêu 顯 宗 維 祧 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Duy-Vĩ 維 禕 | Duy-Cẩn 維 瑾 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Mẫn-đế Duy-Kỳ 愍 帝 維 祁 | Duy-Du 維 䄂 | Duy-Chỉ 維 祗 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||