Lịch sử nước ta là một bài thơ dài kể về lịch sử Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng tác năm 1941 tại Pác Bó, Cao Bằng. Bài thơ gồm 208 câu thơ lục bát dễ thuộc, dễ hiểu, phù hợp với tình hình Việt Nam lúc bấy giờ là hơn 95% dân số mù chữ.
Dân ta phải biết sử ta.
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn ngàn năm
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa.
Hồng Bàng là tổ nước ta
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang
Thiếu niên ta rất vẻ vang
Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời.
Tuổi tuy chưa đến chín mười
Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương.
An Dương Vương thế Hùng Vương
Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân.
Triệu Đà là vị hiền quân,
Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời…
Nước Tàu cậy thế đông người
Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam
Quân Tàu nhiều kẻ tham lam
Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?
Hai Bà Trưng có đại tài
Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian
Ra tay khôi phục giang san
Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta
Tỉnh Thanh Hóa có một bà
Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi.
Tài năng dũng cảm hơn người
Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương.
Phụ nữ ta chẳng tầm thường
Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời.
Kể gần sáu trăm năm giời
Ta không đoàn kết bị người tính thôn.
Anh hùng thay ông Lý Bôn
Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người.
Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài
Lập nên triều Lý sáu mươi năm liền.
Vì Lý Phật Tử ngu hèn
Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta.
Thương dân cực khổ xót xa
Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu.
Vì dân đoàn kết chưa sâu
Cho nên thất bại trước sau mấy lần.
Ngô Quyền quê ở Đường Lâm
Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm.
Đến hồi thập nhị sứ quân
Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn.
Động Hoa Lư có Tiên Hoàng
Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh.
Ra tài kiến thiết kinh dinh,
Đến Vua Phế Đế chỉ kinh hai đời.
Lê Đại Hành nối lên ngôi
Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành.
Vì con bạo ngược hoành hành
Ba đời thì đã tan tành nghiệp vương.
Công Uẩn là kẻ phi thường
Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta.
Mở mang văn hóa nước nhà
Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân.
Lý Thường Kiệt là hiền thần
Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành.
Tuổi già phỉ chí công danh
Mà lòng yêu nước trung thành không phai.
Họ Lý truyền được chín đời
Hai trăm mười sáu năm giời thì tan.
Nhà Trần thống trị giang san,
Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài,
Quân Nguyên binh giỏi tướng tài:
Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu,
Tung hoành chiếm nửa Âu châu
Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la,
Lăm le muốn chiếm nước ta
Năm mươi vạn lính vượt qua biên thùy,
Hải quân theo bể kéo đi,
Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nêm.
Dân ta nào có chịu hèn
Đồng tâm hợp lực mấy phen đuổi Tàu.
Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu,
Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang.
Mênh mông một dải Bạch Đằng
Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh,
Hai lần đại phá Nguyên binh,
Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời.
Quốc Toản là trẻ có tài,
Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền
Mấy lần đánh thắng quân Nguyên
Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung.
Thật là một đấng anh hùng.
Trẻ con Nam Việt nên cùng neo theo.
Đời Trần văn giỏi võ nhiều
Ngoài dân thịnh vượng trong triều hiền minh.
Mười hai đời được hiển vinh,
Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi.
Cha con nhà Hồ Quý Ly,
Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên.
Tình hình trong nước không yên,
Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu,
Bao nhiêu của cải trân châu,
Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn.
Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn,
Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn.
Mấy phen sông Nhị núi Lam,
Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng.
Kìa Túy Động nọ Chi Lăng,
Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành.
Mười năm sự nghiệp hoàn thành,
Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan.
Vì dân hăng hái kết đoàn,
Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng.
Vua hiền có Lê Thánh Tôn,
Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành.
Trăm năm truyền đến Cung Hoàng,
Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi.
Bấy giờ trong nước lôi thôi,
Lê Nam, Mạc Bắc rạch đôi san hà,
Bảy mươi năm vạn can qua
Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi.
Từ đời mười sáu trở đi,
Vua Lê, chúa Trịnh chia vì khá lâu
Nguyễn Nam Trịnh Bắc đánh nhau,
Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng.
Dân gian có kẻ anh hùng,
Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn,
Đóng đô ở đất Quy Nhơn,
Đánh tan Trịnh, Nguyễn cứu dân đảo huyền
Nhà Lê cũng bị mất quyền,
Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương.
Nguyễn Huệ là kẻ phi thường
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc tàu,
Ông đà chí cả mưu cao,
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
Cho nên tàu dẫu làm hung,
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.
Tướng tây Sơn có một bà,
Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân,
Tay bà thống đốc ba quân,
Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là.
Gia Long lại dấy can qua,
Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.
Tự mình đã chẳng có tài,
Nhờ tây qua cứu tính bài giải vây.
Nay ta mất nước thế này,
Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,
Khác gì cõng rắn cắn gà,
Rước voi dầy mả thiệt là ngu si.
Từ năm Tân Hợi trở đi,
tây đà gây chuyện thị phi với mình.
Vậy mà vua chúa triều đình,
Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoai.
nay ta nước mất nhà tan
Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn.
Năm Tự Đức thập nhất niên,
Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây.
Hăm lăm năm sau trận này,
Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan,
Ngàn năm gấm vóc giang san,
Bị vua họ Nguyễn đen hàng cho Tây !
Tội kia càng đắp càng đầy,
Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Nước ta nhiều kẻ tôi trung,
Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương.
Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương,
Cùng thành còn mất làm gương để đời.
Nước ta bị Pháp cướp rồi,
Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng;
Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng
Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương.
Mấy năm ra sức cần Vương,
Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên,
Giang san độc lập một miền,
Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành.
Anh em khố đỏ, khố xanh,
Mưu khoải nghĩa tại Hà thành năm xưa,
Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa,
Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn.
Kìa Yên Bái, nọ Nghệ Anh
Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu.
Nam Kỳ im lặng đã lâu,
Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây.
Bắc Sơn đó, Đô Lương đây!
Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn.
Xét trong lịch sử Việt Nam,
Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng.
Nhiều phen đánh Bắc dẹp Đông,
Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên.
Ngày nay đến nỗi nghèo hèn,
Vì ta chỉ biết lo yên một mình.
Để người đè nén, xem khinh,
Để người bóc lột ra tình tôi ngươi !
Bây giờ Pháp mất nước rồi,
Không đủ sức, không đủ người trị ta.
Giặc Nhật Bản thì mới qua;
Cái nền thống trị chưa ra mối mành.
Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh,
Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà.
Ấy là nhịp tốt cho ta,
Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông.
Người chúng ít, người mình đông
Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên.
Hỡi ai con cháu Rồng Tiên !
Mau mau đoàn kết vũng bền cùng nhau.
Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu,
Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn.
Người giúp sức, kẻ giúp tiền,
Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta.
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh.
Chúng ta có hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh
Mai sau sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng
Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh !
Phụ lục
Những năm quan trọng:
- Trước Tây lịch
- 2879 – Hồng Bàng
- 111 – Tàu lấy nước ta lần đầu
- Sau Tây lịch
- 40 – Hai Bà Trưng đánh Tàu
- 248 – Bà Triệu Ẩu khởi nghĩa
- 544 – Vua Lý đánh Tàu
- 603 – Tàu lấy nước ta
- 939 – Vua Lê khởi nghĩa
- 968 – Đời vua Đinh (12 năm)
- 981 – Đời vua Tiên Lê (29 năm)
- 1010 – Đời vua Hậu Lý (215 năm)
- 1073 – Lý Thường Kiệt đánh Tàu
- 1225 – Đời vua Trần (175 năm)
- 1283 – Trần Hưng Đạo đánh Tàu
- 1407 – Tàu lấy nước ta
- 1427 – Vua Lê khởi nghĩa
- 1543 – Đời vua Hậu Lê (360 năm)
- 1545 – Vua Lê, chúa Trịnh
- 1771 – Đời vua Tây Sơn (24 năm)
- 1789 – Vua Nguyễn Huệ đánh Tàu
- 1794 – Gia Long thông với Tây
- 1847 – Tây bắt đầu đánh nước ta
- 1862 – Vua nhà Nguyễn bắt đầu hàng Tây
- 1889 – Ông Đề Thám khởi nghĩa
- 1893 – Ông Phan Đình Phùng khởi nghĩa
- 1916 – Trung Kỳ khởi nghĩa
- 1917 – Thái Nguyên, Sầm Nưa khởi nghĩa
- 1930 – Yên Bái, Nghệ An khởi nghĩa
- 1940 – Bắc Sơn và Đô Lương khởi nghĩa
- 1941 – Nam Kỳ khởi nghĩa
- 1945 – Việt Nam độc lập [1]
Chú thích
- ▲ Năm 1945 là Hồ Chí Minh đoán trước