Sơn Tây là một trong bốn Trấn quanh Thăng Long xưa, bảo vệ phía tây kinh thành và thường được gọi là Xứ Đoài (Đoài nghĩa là Tây).
Lịch sử
Các nền văn hóa khảo cổ Việt Nam lần đầu được phát hiện và đặt tên ở đây gồm: Sơn Vi (20.000-12.000 TCN), Phùng Nguyên (2.000-1.500 TCN), Đồng Đậu (1.500-1.000 TCN), Gò Mun (1.000-600 TCN) và rất nhiều các di chỉ khác đã minh chứng cho lịch sử nơi này.
Xứ Đoài được gọi là đất Tổ, có kinh đô của các Vua Hùng, xưa thuộc ba bộ: Văn Lang, Phúc Lộc và Chu Diên. Ở đây có núi Ba Vì được coi là núi Tổ do Sơn Tinh ngự trị, bên cạnh sông Đà hung dữ của Thủy Tinh và ngã ba Bạch Hạc có Mộc Tinh.
Thời thuộc Hán, đây là đất huyện Mê Linh và Chu Diên, nơi Hai Bà Trưng khởi nghĩa và đóng đô. Sau là đất quận Tân Xương và Vũ Bình. Tới thời Tùy – Đường, đây là đất Phong Châu, Phúc Lộc Châu và một phần Giao Châu (huyện Thái Bình và huyện Giao Chỉ); quê hương Lý Nam Đế, Phùng Hưng và Ngô Quyền.
Thời Ngô – Đinh – Tiền Lê – Lý, nơi này có tên Phong Châu, Quốc Oai Châu và Chân Đăng Châu từng có 5/12 sứ quân cát cứ gồm: Ngô Nhật Khánh (Đường Lâm, Sơn Tây), Kiều Công Hãn (Phong Châu, Việt Trì), Kiều Thuận (Hồi Hồ, Cẩm Khê), Đỗ Cảnh Thạc (Đỗ Động, Quốc Oai) và Nguyễn Khoan (Tam Đái, Vĩnh Phúc).
Thời Trần, gồm bốn Lộ, sau đổi thành Trấn là: Tam Giang, Tam Đái, Quốc Oai (sau đổi là Quảng Oai) và Đà Giang (sau đổi là Thiên Hưng). Thời Hồ, phòng tuyến thành Đa Bang ở đây thất thủ; giặc Minh tràn vào Thăng Long và chỉ ít lâu sau nước ta lại bị đô hộ. Đầu thời Hậu Lê, vùng này là Tây Đạo, gồm Quốc Oai Thượng, Quốc Oai Trung và Quốc Oai Hạ. Năm 1469, chính thức gọi là Trấn Sơn Tây.
Thời Nguyễn, cho xây thành đá ong và đổi gọi là Tỉnh từ năm 1831. Trận Sơn Tây năm 1883 khiến quân Pháp thiệt hại nhiều nhất kể từ khi gây hấn Bắc Kỳ. Sau đó tỉnh lần lượt bị cắt đất về năm tỉnh Hưng Hóa, Tuyên Quang, Hòa Bình, Hà Đông và Vĩnh Yên. Rồi lại tách tiếp thành hai tỉnh Sơn Tây và Phú Thọ, gồm cả một phần Yên Bái ngày nay.
Năm 1965, Sơn Tây sáp nhập với Hà Đông thành tỉnh Hà Tây, sau đó từng sáp nhập với Hòa Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình. Năm 1968, Phú Thọ sáp nhập với Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú . Năm 2008, Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội. Tên Sơn Tây nay thường chỉ dùng cho thị xã Sơn Tây. Còn tên Xứ Đoài vẫn thường được hiểu là ba tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Hà Tây cũ. Trong khi tỉnh Hòa Bình thường gọi riêng là Xứ Mường.
Địa lý
Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi soạn xong sớm nhất năm 1435 thì Sơn Tây thời Lê có 6 lộ phủ, 24 huyện, 1368 làng xã. Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, trị sở ban đầu ở La Phẩm (Tản Hồng, Ba Vì), sau dời về Cam Giá (Đường Lâm, Sơn Tây). Vị trí địa lý của Sơn Tây khi ấy là:
- Đông giáp Thăng Long và Kinh Bắc
- Nam giáp Thanh Hóa và Sơn Nam
- Bắc giáp Tuyên Quang
- Tây giáp Hưng Hóa
Trung tâm Xứ Đoài là ngã tư sông Đà, sông Thao, sông Lô và sông Phó Đáy. Tất cả hợp lưu tại Phủ Tam Đái tạo thành sông Hồng, rồi tạo thêm bốn nhánh là sông Tích, sông Hát, sông Nhuệ và sông Cà Lồ. Ngoài ra, còn có sông Phan bắt nguồn từ núi Tam Đảo và sông Bùi bắt nguồn từ vùng núi Mỹ Lương. Ca dao có câu “Nhất Tam Đái, nhì Khoái Châu” cho thấy Tam Đái là miền đất màu mỡ nhất miền Bắc. Nhưng ngoài Tam Đái thì chỉ có Phủ Quốc Oai địa hình khá bằng phẳng, còn lại Xứ Đoài đều nhiều đồi núi.
Dãy núi Tam Đảo cao 1591m, kéo dài khoảng 60km ở phía đông bắc. Dãy núi Ba Vì cao 1296m, dãy núi Viên Nam cao 1031m và vùng núi đá vôi Mỹ Lương trải dài tổng cộng khoảng 80km ở phía nam. Hai phía núi chạy song song, theo hướng tây bắc đông nam, bao bọc lấy Xứ Đoài. Với thế tay vịn hai bên, kinh đô Phong Châu của các Vua Hùng nằm giữa và sau lưng theo truyền thuyết là 99 ngọn núi voi chầu. Ở Phủ Quốc Oai xưa còn có một cụm núi Thập lục kỳ sơn là 16 ngọn núi sót lại giữa đồng bằng. Cùng với Phủ Quảng Oai kế bên là hai nơi có nghề khai thác đá ong và nhiều kiến trúc cổ xây từ loại vật liệu này.
Hành chính
Danh sách 6 phủ thời Lê gồm:
- Phủ Quốc Oai có 5 huyện, 251 xã gồm: Từ Liêm (gồm cả Cầu Giấy), Đan Phượng (gồm cả Hoài Đức), Phúc Lộc (nay là Phúc Thọ và phía bắc TX. Sơn Tây), Yên Sơn (nay là Quốc Oai) và Thạch Thất.
- Phủ Tam Đái có 6 huyện, 444 xã gồm: Yên Lãng (nay là Mê Linh), Yên Lạc (gồm cả Vĩnh Yên), Bạch Hạc (nay là Vĩnh Tường), Tiên Phong (phía bắc Ba Vì), Phù Khang (nay là Phù Ninh) và Lập Thạch.
- Phủ Lâm Thao có 4 huyện, 230 xã gồm: Sơn Vi (nay là Lâm Thao và Việt Trì), Hoa Khê (nay là Cẩm Khê), Hạ Hoa (nay là Hạ Hòa) và Thanh Ba.
- Phủ Đoan Hùng có 5 huyện 277 xã gồm: Đông Lan (nay là Đoan Hùng), Tây Lan (nay thuộc Yên Bái), Sơn Dương (nay thuộc Tuyên Quang), Đương Đạo (phía bắc Lập Thạch) và Tam Dương (gồm cả Tam Đảo).
- Phủ Đà Dương có 2 huyện, 76 xã gồm: Tam Nông (gồm cả Thanh Thủy) và Bất Bạt (phía tây Ba Vì và đất Hòa Bình dọc hữu ngạn sông Đà).
- Phủ Quảng Oai có 2 huyện, 91 xã gồm: Minh Nghĩa (phía nam TX. Sơn Tây và phía đông Ba Vì) và Mỹ Lương (nay là Chương Mỹ, Mỹ Đức và phía đông Hòa Bình, giáp Thanh Hóa).
Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19 , Sơn Tây còn 5 phủ:
- Phủ Quốc Oai có 5 huyện: Từ Liêm, Đan Phượng, Yên Sơn, Thạch Thất và Mỹ Lương.
- Phủ Tam Đái có 5 huyện: Yên Lãng, Yên Lạc, Bạch Hạc, Phù Khang và Lập Thạch.
- Phủ Lâm Thao có 5 huyện: Sơn Vi, Hoa Khê, Hạ Hoa, Thanh Ba và Tam Nông.
- Phủ Đoan Hùng giữ nguyên 5 huyện chỉ đổi tên là: Đông Quan, Tây Quan, Sơn Dương, Đương Đạo và Tam Dương.
- Phủ Quảng Oai có 4 huyện: Phúc Lộc, Tiên Phong, Bất Bạt và Tùng Thiện (Minh Nghĩa đổi tên).
Sau khi chia tách lần cuối, cho tới năm 1965, Sơn Tây chỉ còn nằm gọn trong ba sông Đà, Hồng, Hát với 7 đơn vị hành chính:
- Phủ Quốc Oai: Hoàng Xá, Thượng Hiệp, Hạ Hiệp, Lật Sài, Liệp Mai, Giã Cát, Thạch Thán, Tiên Lữ, Bất Lạm, Cấn Xá.
- Phủ Quảng Oai: Tây Đằng, Chu Quyến, Phú Xuyên, Thanh Lạng, Kiều Mộc, Thanh Mai, Vật Lại
- Huyện Phúc Thọ: Phù Xa, Cam Thịnh, Cựu Đình, Võng Xuyên, Vĩnh Phúc, Xuân Vân, Phú Châu, Phù Long, Phụng Thượng
- Huyện Thạch Thất: Kim Quan, Lạc Trị, Đại Đồng, Hương Ngải, Thạch Xá, Cần Kiệm
- Huyện Tùng Thiện: Thanh Vị, Cam Thượng, Nhân Lý, Thụy Phiêu, Mỹ Khê, Bối Sơn, Tường Phiêu, La Gián
- Huyện Bất Bạt: Thủ Pháp, Phú Nghĩa, Cẩm Đái, Phú Hữu, Khê Thượng
- Thị xã Sơn Tây: lập năm 1924, rộng 150 mẫu (0,54 km2 trong đó Thành cổ Sơn Tây rộng 0,16 km2), trên đất của các làng Phú Nhi, Thuần Nghệ, Phù Xa, Mai Đạm Chai (Mai Trai) và Nghĩa Phủ.
Văn hóa
Con người
Tính cách: Dư địa chí của Nguyễn Trãi có lời bình: “Ở vùng Sơn Tây người thuần hậu, phong tục chất phác; tuy qua nhiễu loạn, chưa hề cường ngạnh bao giờ”
Giọng nói: Sơn Tây tỉnh địa chí cho biết: “nhân dân nói tiếng nặng không khác gì nhân dân Trung Kỳ… lắm nơi nhân dân lại dùng các thổ âm khác hẳn với tiếng ta thường nói…”. Theo PGS.TS Phạm Văn Hảo , thì dân tỉnh Đoài chính là người Mường được Việt hóa tại chỗ. Ngoài ra, vùng ven sông Đáy là nơi sinh sống của hàng ngàn tù binh Chiêm Thành cũng được cho là nguyên nhân tạo ra phương ngữ khác biệt hoàn toàn với miền Bắc này.
Phong tục: theo Đại Nam nhất thống chí tới thời Nguyễn, ở Bất Bạt và Mỹ Lương vẫn lấy tháng 11 âm lịch (tháng Tý) làm đầu năm mới, theo truyền thống từ thời Hùng Vương . Cho đến nay vẫn có một số nơi ăn Tết, xông đất, mở cửa rừng, ăn đất… (như ở Lập Thạch )
Danh nhân xưa: Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Phùng Hưng, Ngô Quyền, Từ Đạo Hạnh, Tô Hiến Thành, Ngô Sĩ Liên, Phùng Khắc Khoan, Giang Văn Minh, Phan Huy Chú, Phan Kế Toại…
Danh nhân nay: Phùng Quang Thanh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Thái Học, Xuân Thủy, Nguyễn Văn Huyên, Trần Duy Hưng, Khuất Duy Tiến, Lê Hiến Mai, Phan Trọng Tuệ, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Anh Đệ, Phạm Gia Khiêm, Hà Kế Tấn, Ngô Văn Dụ, Vũ Quốc Hùng, Nguyễn Tài Thu, Nguyễn Lộc…
Văn nghệ sĩ: Tản Đà, Tào Mạt, Phạm Tiến Duật, Quang Dũng, Bút Tre, Hoàng Lân, Hoàng Long, Trần Hiếu, Trần Tiến, Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Lại Văn Sâm, Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Ngạn…
Di sản
Đền, lăng: Đền Hùng, Đền Mẫu Âu Cơ, Đền Hát Môn, Đền Hạ Lôi, Lăng Ngô Quyền, Đền Và, Đền Phùng Hưng, Lăng Lý Nam Đế…
Đình, chùa: Đình So, Đình Chèm, Đình Tây Đằng, Đình Tường Phiêu, Đình Hạ Hiệp, Đình Đại Phùng, Đình Thổ Tang, cụm Đình Hương Canh, Chùa Thầy, Chùa Tây Phương, Chùa Hương, Tháp Chùa Then, Chùa Tây Thiên – tất cả đều được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
Danh thắng: VQG Ba Vì, VQG Tam Đảo, VQG Xuân Sơn, Núi Trầm, hồ Đồng Mô, hồ Suối Hai, hồ Đại Lải, suối nước nóng Kim Bôi, đồi chè Long Cốc, làng cổ Đường Lâm…
Lễ hội khác: hội phết Hiền Quan, lễ hội chọi trâu Hải Lựu, rối nước làng Ra… Đặc biệt hát xoan Phú Thọ được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Đặc sản: cá anh vũ, gà Mía, bưởi Diễn, nem Phùng, bưởi Đoan Hùng, sữa Ba Vì, bánh hòn tai, bánh tẻ Phú Nhi, chè lam Thạch Xá, bánh gai Yên Sở, thịt chua Thanh Sơn, cá thính Lập Thạch, cà dầm tương Tam Hiệp, miến làng So, quả cọ, rêu đá, ngọn su su Tam Đảo, củ mài và mơ Chùa Hương…
Quà làng nghề: tranh Kim Hoàng, quạt và mộc Chàng Sơn, mây tre đan Phú Nghĩa…
Hình ảnh
. . . . . . . . . . . . . . . .@media all and (max-width:720px) . . . . . .>.}
Từ trái qua: Đình Tường Phiêu, Tháp Then, Chùa Tây Phương, Đền Hùng, Núi Ba Vì, Lăng Ngô Quyền, Nhà thờ Tam Đảo, Chùa Thầy, Thành cổ Sơn Tây