Lễ hội Cầu ngư ở Cửa Hội

Lễ hội Cầu Ngư là một trong những sinh hoạt văn hóa mang đậm yếu tố tâm linh của ngư dân vùng cửa biển. Nó gắn với các tín ngưỡng thờ cá – là vật tổ từ xa xưa của cha ông ta trong những ngày đầu di dân về phía biển. Lễ hội được tổ chức trang nghiêm, hoành tráng  vào ngày mồng 3 tết hàng năm.

Từ xa xưa, khi khoa học còn lạc hậu, con người chỉ dựa bằng vốn sống và kinh nghiệm thực tế chứ hoàn toàn không dựa trên cơ sở khoa học. Chính vì thế mà không biết bao nhiêu con thuyền cùng với những sinh mạng bị nhấn chìm dưới đáy sông. Từ đó, người ta bắt đầu tin vào sức mạnh vô hình siêu nhiên nào đó, họ vừa sợ hãi, vừa cầu mong sự che chở. Cho nên lễ hội cầu Ngư có nguồn gốc từ đó.

Trong quan niệm của những người đi biển ở đây thì “cá ngài” là chúa tể của muôn loài chốn biển khơi. “Cá ngài” là biểu tượng về sự thiêng liêng, uy quyền. Đồng thời mọi biểu hiện của cá đều là sự dự báo chính xác về mọi đều tốt, xấu, may rủi cho một năm, một vụ mùa hay một sự kiện liên quan tới nghề biển.

Trong lễ hội Cầu ngư chủ yếu chỉ có phần lễ. Phần lễ được tiến hành một cách đơn giản nhưng đầy không khí trang nghiêm thành kính.

Đúng 5 giờ sáng phía Nam Cửa Hội có 3 hồi trống trầm ấm, dõng dạc do một vị bô lão trong trang phục áo the, khăn đóng chỉnh tề đánh. Khi tiếng trống vang lên thì 3 chiếc thuyền lớn từ bờ bắc xếp theo hình mũi tên : một chiếc hơi nhô về phía trước, hai chiếc còn lại song song áp sát theo sau từ từ tiến ra giữa dòng.

Cả ba con thuyền này thuộc vào loại lớn nhất trong vạn chài, nó có kích thước, chủng loại gần giống nhau, chỉ trừ thuyền đi trước to, mũi cao hơn một chút, còn hai thuyền sau đều giống nhau. Cả 3 thuyền này đều được trang hoàng rực rỡ, trên mũi của thuyền được thắt một tấm vải đỏ (biểu tượng cho sự may mắn). Phía hai bên đầu thuyền là hai con mắt được vẽ nổi, cả ba thuyền trong lúc hành lễ đều phải là thuyền chèo. Thuyền đi đầu tiên gồm có 9 người, trong đó có 8 tay chèo do 8 thanh niên khỏe mạnh và có kinh nghiệm đi biển. Tất cả đều phải trong trang phục của ngư dân xưa : áo quần nâu mành cánh buồm đều tay đưa thuyền ra giữa “Lạch”. Còn người cuối cùng trên thuyền là một ngư ông cao tuổi – đây là linh hồn của lễ hội Cầu Ngư. Ông phải là người đi biển nhiều năm, am tường mọi biến thiên về thời tiết của vùng, đồng thời là người có uy tín và có tiếng nói nhất được mọi người nể phục. Ông sẽ là người giữ vai trò chủ tế được cả làng cử ra trước đây.

Một điều hết sức đặc biệt là ngay con thuyền này còn chở “cá ngài” với chiều dài gần hết con thuyền. “Cá ngài” ở đây được làm bằng nhựa mềm và có vẻ rất giống thật.

Hai con thuyền còn lại ở hai phía đều có người. Trong 9 người mỗi thuyền thì đã có 8 người thay nhau chèo còn người thứ 9 trong thuyền giữ vai trò là thuyền trưởng cả đội. Người này phải chịu trách nhiệm điều hành mọi hoạt động theo nghi thức đặc biệt theo sự phân công, ra hiệu từ con thuyền phía trước do vị chủ tế giao phó. Có một điểm khác so với con thuyền phía trước là cả hai con thuyền này đều phải chở đầy lưới sạch, được xếp trong tư thế như sắp đánh cả. Ở phần đầu giữa mũi con thuyền cũng có hương án bày đầy đủ hương đăng, hoa quả và lễ vật.

Cả ba con thuyền chầm chậm tiến ra vị từ giữa dòng trước sự chứng kiến của hàng chục vạn người. Khi cả 3 thuyền ra đến giữa dòng thì lập tức mũi thuyền đồng loạt hướng về phía biển Đông theo hướng chỉ tay của vị chủ tế. Thuyền ra giữa trung tâm “Lạch” – đó là lúc phần lễ cầu Ngư – Cửa Hội chính thức bắt đầu.

Khi phần lễ được bắt đầu cũng là lúc trống từ hai bờ Bắc Nam cất lên khoan thai, trịnh trọng. Vị chủ tế đứng thẳng, mắt hướng về phía “Lạch”, hai tay đan nhau để lên trán đọc lời cầu lễ. Đó là lời cầu nguyện của đại diện cho hơn 4 vạn dân cầu mong cho một năm gió thuận, mưa hòa, trời yên biển lặng, tôm cá sinh sôi, ngư dân gặp nhiều may mắn. Cứ sau mỗi đoạn tế ngắn thì vị chủ tế quỳ xuống, dập đầu lạy ba lạy, hai vị thuyền trưởng còn lại cũng hành lễ theo trong sự yên lặng theo dõi của mọi người hai bên bờ. Cứ sau mỗi một đoạn tế ngắn vị chủ tế tiếp tục cầu nguyện, còn hai thuyền trưởng sẽ ném dần lễ vật như hương vàng, gạo, hoa quả đèn xuống cửa sông.

Phần lễ được tiến hành trong vòng khoảng 30 phút, kết thúc phần lễ, vị chú tế cùng hai truyền trưởng phía sau dập đầu lạy chín lạy. Xong đâu đó 2 thuyền trưởng của 2 thuyền kia sẽ nhảy sang thuyền lớn trong tiếng trống đổ dồn cùng vị chủ tế đưa “cá ngài” xuống của sông. Việc đưa “cá ngài” xuống nước mang đầy ý nghĩa, đó là sự trở về với giang sơn biển cả, của chúa muôn loài. Đồng thời, khi trở về vật tổ đã mang trong mình đầy đủ những thông điệp cũng như những lời nguyện cầu của muôn dân về một năm may mắn, tốt lành. Đây cũng là lúc mọi người cảm thấy nhẹ nhõm, trong lòng trở nên phấn trấn và tự tin hơn.

Nhưng đến đây không phải ba thuyền đã hoàn thành phần việc của mình, mà qua phần nguy hiểm của “lạch” một quãng thì vị chủ tế lại trèo lên cột thuyền, nơi có vị trí cao nhất để chỉ huy việc đánh lưới,một mẻ lưới được tiến hành có sự phối hợp đồng bộ giữa 3 con thuyền. Khi lưới được vây kín đến gang tay cuối cùng thì cũng là lúc hàng trăm thuyền máy lớn nhỏ đồng loạt khởi động chạy ra tham gia vui hội và “chia phần”. Những con thuyền này cố lượn thật sát mẻ lưới đầu tiên đầy thiêng liêng này và múc nước ở đó đổ vào lòng thuyền mình. Họ cho rằng làm như vậy thì mọi may mắn trong năm sẽ đến với thuyền mình. Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ “chia phần”, các con thuyền này sẽ chạy vòng ngoài nhường chỗ cho những con thuyền khác ở vòng ngoài vào ’lấy lộc”.

Trong khi các con thuyền liên tục vào ra thì ba con thuyền hành lễ ban đầu vẫn miệt mài với công việc của mình. Họ tiến hành thủ tục đánh cá như thật, cá thu được có khi lên đến hàng tạ. Dù không nhiều song những năm như thế mọi người hoan hỉ lắm. Vì họ cho rằng đó là điềm báo, là dấu hiệu một năm bội thu hoặc là sự linh ứng nhãn tiền của vật tổ khi mẻ lưới cuối cùng được kéo lên thì cũng là lúc tất cả các con thuyền tham gia lễ hội hướng hết mũi ra biển Đông đã vượt “lạch”. Sau khi vượt “lạch” một quãng họ lại quay mũi hướng thuyền về phía bờ trong tiếng hò reo hoan hỉ của mọi người.

Trong quá trình đó người ta vẫn thắp nhang tiếp tục cầu mong sự may mắn và như để vơi bớt nỗi oan khuất cho những người trước kia đã nằm lại nơi đây.

Lễ hội Cầu Ngư là dịp  bày tỏ lòng thành kính của ngư dân vùng này với “cá ngài”, cầu mong sự che chở, tốt lành bội thu và cũng như để xua đi mọi điều xấu đồng thời còn là dịp để người ta cúng tế những vong hồn oan khuất và vĩnh viễn ở lại với biển nhằm xoa dịu nỗi đau của những người ở lại

Theo : Cinet

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Trang web này sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm duyệt web tốt hơn. Bằng cách duyệt trang web này, bạn đồng ý với việc chúng tôi sử dụng cookie.