Tỉnh Cần Thơ | |
Bản đồ hạt Cần Thơ năm 1890 | |
Vùng | Đồng bằng sông Cửu Long |
---|---|
Tỉnh lỵ | Thành phố Cần Thơ |
Phân chia hành chính | 1 thành phố, 1 thị xã, 7 huyện |
Thành lập | 1/1/1900 |
Giải thể | 1/1/2004 |
Diện tích | 2.997,33 km² |
Dân số (26/11/2003) | |
Tổng cộng | 1.878.226 người |
Mật độ | 626 người/km² |
Biển số xe | 65 |
Cần Thơ là một tỉnh ở miền Tây Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam.
Địa lý
Tỉnh Cần Thơ có vị trí địa lý (tại thời điểm 1992–2003):
- Phía đông giáp Vĩnh Long
- Phía tây giáp Kiên Giang
- Phía nam giáp Minh Hải (trước 1997); Bạc Liêu (sau 1997) và Sóc Trăng
- Phía bắc giáp An Giang và Đồng Tháp.
Hành chính
Năm 1897
Thời L. Bocquillon làm chủ , Cần Thơ được chia thành 9 tổng:
- Tổng An Trường có 11 làng: An Hòa, Định Hòa, Đông Lợi, Đông Thành, Đông Thành Trung, Mỹ Chánh, Mỹ Thuận, Phù Ly, Tân Lược, Tân Phong, Tân Quới
- Tổng Bình Lễ có 10 làng: An Ninh, Bình An, Đông Hậu, Hanh Thông, Loan Tân, Mỹ An, Ngãi Tứ, Tân Thiết, Trung Gia, Thiện Mỹ
- Tổng Định An có 6 làng: Đông Phú, Hậu Thạnh, Long Hưng, Phú Hữu, Phú Mỹ Đông, Phú Thứ
- Tổng Định Bảo có 11 làng: Mỹ Khánh, Nhơn Ái, Nhơn Nghĩa, Phú Lợi, Tân An, Tân Thạnh Đông, Thạnh An, Thạnh Mỹ, Thới Bình, Thường Thạnh, Thường Thạnh Đông
- Tổng Định Hòa có 10 làng: Đồng Sơn, Long Sơn, Mỹ Trường, Như Lăng, Phụng Sơn, Thạnh Xuân, Thanh Hưng, Thường Bình, Trường Khánh, Phụng Tường
- Tổng Định Thới có 10 làng: Bình Phước, Bình Xuân, Long Tuyền, Phú Luông, Tân Thới, Thới An, Thới An Đông, Thới Giai, Thới Hanh, Thới Hưng
- Tổng Thành Trị có 9 làng: Gia Kiết, Hựu Thạnh, Ngãi Lộ, Thuận Thới, Tích Hóa, Tích Khánh, Trà Côn, Trà Sơn, Vĩnh Xuân
- Tổng Thới Bảo Thổ có 8 làng: Định Môn, Trường Long, Ô Môn, Thới Lai, Thới Thạnh, Thới Thạnh Hạ, Trường Lạc, Trường Thành
- Tổng Tuân Giáo có 15 làng: An Phụ, An Thổ, Châu Hưng, Gia Thạnh, Hương Khê, Lương Điền, Phong Nhượng, Phong Phụ, Phong Thới, Tân Hòa, Tam Ngãi, Tam Hòa, Thạnh Phú, Thơ Đôi, Thông Thảo.
Năm 1939
Tỉnh Cần Thơ có 5 quận trực thuộc:
1. Quận Châu Thành có 2 tổng với 16 làng:
- Tổng Định Bảo có 12 làng: Mỹ Khánh, Nhơn Ái, Nhơn Nghĩa, Phú Lợi, Tân An, Tân Hòa Tây, Tân Thạnh Đông, Thạnh An, Thới Bình, Thành Mỹ, Thường Thạnh, Thường Thạnh Đông
- Tổng Định An có 4 làng: Đông Phú, Hậu Thành Hưng, Phú Mỹ Đông, Phú Thứ.
2. Quận Cầu Kè có 2 tổng với 13 làng:
- Tổng Thạnh Trị có 5 làng: Hựu Thành, Thuận Thới, Tích Thiện, Trà Côn, Vĩnh Xuân
- Tổng Tuân Giáo có 8 làng: An Phú Tân, Hòa An, Thông Hòa, Châu Điền, Phong Thạnh, Phong Phú, Tam Ngãi, Thạnh Phú.
3. Quận Ô Môn có 2 tổng với 15 làng:
- Tổng Định Thới có 7 làng: Long Tuyền, Tân Thới, Tân An, Giai Xuân, Thới An Đông, Thới Long, Phú Thới
- Tổng Thới Bảo có 8 làng: Định Môn, Ô Môn, Thới Đông, Thới Lai, Thới Thạnh, Trường Lạc, Trường Long, Trường Thành.
4. Quận Phụng Hiệp có 2 tổng với 14 làng:
- Tổng Định Hòa có 8 làng: Hòa Mỹ, Mỹ Phước, Tân Bình, Tân Hưng, Tân Lập, Thạnh Hưng, Thạnh Xuân, Trung Hưng
- Tổng Định Phước có 6 làng: Đông Sơn, Như Long, Phụng Hiệp, Song Mỹ, Thường Phước, Trường Thạnh Sơn.
Năm 1994
Toàn Cần Thơ có 1 thành phố, 6 huyện với 15 phường, 6 thị trấn và 73 xã:
- Thành phố Cần Thơ (trực thuộc Cần Thơ) gồm 15 phường: An Cư, An Hòa, An Hội, An Lạc, An Nghiệp, An Phú, An Thới, Bình Thủy, Cái Khế, Hưng Lợi, Hưng Phú, Tân An, Thới Bình, Trà Nóc, Xuân Khánh và 7 xã: An Bình, Giai Xuân, Hưng Thạnh, Long Hòa, Long Tuyền, Mỹ Khánh, Thới An Đông.
- Huyện Châu Thành gồm thị trấn Cái Răng (huyện lỵ) và 13 xã: Đông Phú, Đông Phước, Đông Thạnh, Nhơn Ái, Nhơn Nghĩa, Phú An, Phú Hữu, Tân Hòa, Tân Phú Thạnh, Tân Thuận, Thạnh Xuân, Trường Long, Trường Long Tây.
- Huyện Phụng Hiệp gồm thị trấn Phụng Hiệp (huyện lỵ) và 11 xã: Đại Thành, Hiệp Hưng, Hòa An, Hòa Mỹ, Long Thạnh, Phụng Hiệp, Phương Bình, Phương Phú, Tân Bình, Tân Phước Hưng, Thạnh Hòa.
- Huyện Vị Thanh gồm thị trấn Vị Thanh (huyện lỵ) và 9 xã: Hỏa Lựu, Hỏa Tiến, Vị Đông, Vị Tân, Vị Thanh, Vị Thủy, Vĩnh Thuận Tây, Vĩnh Tường, Vĩnh Trung.
- Huyện Long Mỹ gồm thị trấn Long Mỹ (huyện lỵ) và 9 xã: Long Bình, Long Phú, Long Trị, Lương Tâm, Thuận Hưng, Vị Thắng, Vĩnh Thuận Đông, Vĩnh Viễn, Xà Phiên.
- Huyện Ô Môn gồm thị trấn Ô Môn (huyện lỵ) và 12 xã: Định Môn, Đông Thuận, Phước Thới, Tân Thới, Thới An, Thới Đông, Thới Lai, Thới Long, Thới Thạnh, Trường Lạc, Trường Thành, Trường Xuân.
- Huyện Thốt Nốt gồm thị trấn Thốt Nốt (huyện lỵ) và 12 xã: Tân Lộc, Thạnh An, Thạnh Lộc, Thạnh Quới, Thạnh Thắng, Thới Thuận, Thuận Hưng, Trung An, Trung Hưng, Trung Nhứt, Thạnh Phú, Vĩnh Trinh.
Năm 2003
Toàn Cần Thơ có 1 thành phố, 1 thị xã, 7 huyện với 20 phường, 13 thị trấn, 89 xã:
- Thành phố Cần Thơ (trực thuộc Cần Thơ) gồm 15 phường: An Cư, An Hòa, An Hội, An Lạc, An Nghiệp, An Phú, An Thới, Bình Thủy, Cái Khế, Hưng Lợi, Hưng Phú, Tân An, Thới Bình, Trà Nóc, Xuân Khánh và 7 xã: An Bình, Giai Xuân, Hưng Thạnh, Long Hòa, Long Tuyền, Mỹ Khánh, Thới An Đông.
- Thị xã Vị Thanh gồm 5 phường: 1, 3, 4, 5, 7 và 3 xã: Hỏa Lựu, Hỏa Tiến, Vị Tân.
- Huyện Châu Thành gồm 2 thị trấn: Cái Răng (huyện lỵ), Ngã Sáu và 7 xã: Đông Phú, Đông Phước, Đông Phước A, Đông Thạnh, Phú An, Phú Hữu, Phú Hữu A.
- Huyện Châu Thành A gồm thị trấn Một Ngàn (huyện lỵ) và 10 xã: Nhơn Ái, Nhơn Nghĩa, Nhơn Nghĩa A, Tân Hòa, Tân Phú Thạnh, Tân Thuận, Thạnh Xuân, Trường Long, Trường Long A, Trường Long Tây.
- Huyện Long Mỹ gồm thị trấn Long Mỹ (huyện lỵ) và 8 xã: Long Bình, Long Phú, Long Trị, Lương Tâm, Thuận Hưng, Vĩnh Thuận Đông, Vĩnh Viễn, Xà Phiên.
- Huyện Ô Môn gồm 3 thị trấn: Ô Môn (huyện lỵ), Cờ Đỏ, Thới Lai và 16 xã: Định Môn, Đông Bình, Đông Hiệp, Đông Thuận, Phước Thới, Tân Thới, Thới An, Thới Đông, Thới Lai, Thới Long, Thới Thạnh, Trường Lạc, Trường Thành, Trường Xuân, Trường Xuân A, Xuân Thắng.
- Huyện Phụng Hiệp gồm 3 thị trấn: Phụng Hiệp (huyện lỵ), Cây Dương, Kinh Cùng và 14 xã: Bình Thành, Đại Thành, Hiệp Hưng, Hòa An, Hòa Mỹ, Long Thạnh, Phụng Hiệp, Phương Bình, Phương Phú, Tân Bình, Tân Long, Tân Phước Hưng, Tân Thành, Thạnh Hòa.
- Huyện Thốt Nốt gồm 2 thị trấn: Thốt Nốt (huyện lỵ), Thạnh An và 15 xã: Tân Lộc, Thạnh An, Thạnh Lộc, Thạnh Mỹ, Thạnh Phú, Thạnh Quới, Thạnh Thắng, Thới Thuận, Thuận Hưng, Trung An, Trung Hưng, Trung Kiên, Trung Nhứt, Trung Thạnh, Vĩnh Trinh.
- Huyện Vị Thủy gồm thị trấn Nàng Mau (huyện lỵ) và 9 xã: Vị Bình, Vị Đông, Vị Thắng, Vị Thanh, Vị Thủy, Vị Trung, Vĩnh Thuận Tây, Vĩnh Trung, Vĩnh Tường.
Lịch sử
Bản đồ hạt Cần Thơ năm 1890
Thời Pháp thuộc
Trước năm 1900
Cần Thơ vốn là đất cũ thuộc huyện Vĩnh Định và sau đó là huyện Phong Phú của An Giang thời Nam Kỳ Lục dưới triều nhà Nguyễn độc lập. Lúc bấy giờ, lỵ toàn An Giang cũ đặt tại thành Châu Đốc (ngày nay là thành phố Châu Đốc của An Giang), còn Cần Thơ chỉ là nơi đặt lỵ sở của huyện Phong Phú.
Ngày 21 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm gọn An Giang. Lúc này, Pháp thành lập ngay hạt thanh tra Tân Thành trên địa bàn phủ Tân Thành của An Giang cũ, với lỵ sở hạt đặt tại Sa Đéc. Vùng đất Cần Thơ lúc này vẫn là huyện Phong Phú thuộc về hạt thanh tra Tân Thành. Huyện Phong Phú có địa giới hành chính Bắc giáp phủ Tân Thạnh và phủ Lạc Hóa, Tây – Bắc giáp huyện Tây Xuyên, Đông – Nam giáp huyện Vĩnh Định, phía Nam có nhiều rừng tràm và hổ báo. Huyện Phong Phú được phân cấp hành chính cơ sở gồm 8 tổng (3 tổng cũ, 5 tổng mới phía Nam sông Hậu). Vào thời điểm này ở huyện Phong Phú có 5 chợ chính là: Cần Thơ, Ô Môn, Bình Thủy, Trà Niềng và Cái Răng.
Ngày 16 tháng 8 năm 1867, thực dân Pháp chính thức đổi tên gọi tất cả các địa danh cấp và hạt thanh tra theo tên gọi địa điểm nơi đặt lỵ sở hoặc hạt thanh tra. Khi đó, An Giang được đổi tên thành Châu Đốc, và hạt thanh tra Sa Đéc thuộc Châu Đốc cũng được thành lập do đổi tên từ hạt thanh tra Tân Thành cũ.
Ngày 4 tháng 12 năm 1867, huyện Phong Phú được tách ra khỏi hạt thanh tra Sa Đéc để thành lập mới hạt thanh tra Cần Thơ, với lỵ sở đặt tại Cần Thơ.
Ngày 5 tháng 6 năm 1871, hạt thanh tra Cần Thơ lại bị giải thể và nhập địa bàn vào hạt thanh tra Sa Đéc.
Ngày 30 tháng 4 năm 1872, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định sáp nhập huyện Phong Phú thuộc hạt Sa Đéc với vùng Bắc Tràng thuộc phủ Lạc Hóa, Vĩnh Long trước đây để lập thành một hạt mới, lấy tên là hạt Trà Ôn do Toà Bố hạt lúc bấy giờ đặt tại Trà Ôn và trưởng lúc đó là Deseravalle. Một năm sau, Toà Bố từ Trà Ôn lại dời về Cái Răng. Hạt thanh tra Trà Ôn khi đó gồm 11 tổng, 119 thôn:
|
|
Các tổng Tuân Lễ, Tuân Giáo, Bình Lễ, Thành Trị nguyên trước thuộc các huyện Vĩnh Trị và Tuân Ngãi của Vĩnh Long; riêng tổng An Trường trước thuộc huyện An Xuyên, phủ Tân Thành, An Giang cũ.
Ngày 23 tháng 2 năm 1876, dưới thời trưởng Sa Đéc là Schneider, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định mới lấy toàn bộ huyện Phong Phú, hợp thêm một phần nhỏ thuộc phía nam Vĩnh Long cũ và một phần huyện An Xuyên thuộc phủ Tân Thành, An Giang cũ (tức tổng An Trường) để lập hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ. Hạt Cần Thơ thuộc khu vực Bassac (Hậu Giang). Chánh tham biện hạt Cần Thơ đầu tiên là Nicolai (1876 – 1886), Villard (1877, 3 tháng), Lebrun Bocquillon (1887 – ?)… Hạt Cần Thơ chia làm 9 tổng, 119 làng, dân số 53.910 người:
|
|
Ngày 28 tháng 1 năm 1892, lập mới tổng Định Hòa ở vùng đất phía nam của hạt tham biện Cần Thơ.
Sau năm 1900
Ngày 20 tháng 12 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định đổi tên gọi tất cả các hạt tham biện (arrondissement) thành (province) và chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 trên toàn cõi Nam Kỳ. Như vậy, Cần Thơ (province de Cantho) là một trong 20 ở Nam Kỳ lúc bấy giờ. Bên dưới cấp ban đầu chia thành các tổng (canton) trực thuộc.
Năm 1904, toàn Cần Thơ có 10 chợ như sau:
|
|
Năm 1903, Tỉnh trưởng Cần Thơ Delanoue chia đôi tổng Định Hòa để lập thêm tổng Định Phước. Năm 1904, Cần Thơ gồm 10 tổng trực thuộc: An Trường, Bình Lễ, Định An, Định Bảo, Định Hòa, Định Phước, Định Thới, Thới Bảo Thổ, Thành Trị, Tuân Giáo.
Năm 1913, Toàn quyền Đông Dương cho thành lập 4 quận (circonscription) trực thuộc Cần Thơ: Châu Thành, Cầu Kè, Ô Môn, Rạch Gòi. Tên các quận này vốn được lấy theo tên làng hoặc tên chợ nơi đặt quận lỵ. Riêng quận Châu Thành được thành lập trên địa bàn một số tổng thuộc khu vực nơi đặt lỵ Cần Thơ và các vùng phụ cận.
Năm 1915, Cần Thơ có 189.837 người Kinh, 14.369 người Miên, 5.762 người Hoa, 3048 người Minh Hương, 127 người Âu và 313 người các dân tộc khác. Tỉnh trưởng Cần Thơ lúc đó là Tholance (từ tháng 3-1915 đến tháng 11-1915).
Năm 1917, do quận lỵ được dời từ Rạch Gòi về Phụng Hiệp, thực dân Pháp giải thể quận Rạch Gòi để thành lập mới quận Phụng Hiệp. Tỉnh trưởng lúc này là Caillard (từ 11-1915 đến 4-1917).
Năm 1917, Cần Thơ có diện tích 2.191 km², gồm 4 quận, 10 tổng, 94 làng:
- Quận Châu Thành có 2 tổng, 23 làng:
- Tổng Định Bảo: 12 làng
- Tổng An Trường: 11 làng
- Quận Ô Môn có 2 tổng, 18 làng:
- Tổng Định Thới: 10 làng
- Tổng Thới Bảo: 8 làng
- Quận Phụng Hiệp có 3 tổng, 21 làng:
- Tổng Định An: 6 làng
- Tổng Định Hòa: 8 làng
- Tổng Định Phước: 7 làng
- Quận Cầu Kè có 3 tổng, 32 làng:
- Tổng Bình Lễ: 9 làng
- Tổng Thành Trị: 8 làng
- Tổng Tuần Giáo: 15 làng.
Ngày 10 tháng 7 năm 1921, Cần Thơ thành lập mới thêm quận Trà Ôn, bao gồm tổng Bình Lễ của quận Cầu Kè chuyển sang và tổng Định An của quận Phụng Hiệp chuyển sang.
Tỉnh lỵ Cần Thơ đặt tại làng Tân An thuộc tổng Định Bảo, quận Châu Thành. Ngày 18 tháng 12 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập thành phố Cần Thơ có Ủy ban thành phố, thị trưởng do chủ bổ nhiệm và có ngân sách riêng. Tuy nhiên sau này vẫn thường gọi là thị xã Cần Thơ. Thị xã Cần Thơ được thành lập do tách phần đất khu vực lỵ và vùng phụ cận vốn thuộc địa bàn làng Tân An trước đó.
Ngày 24 tháng 12 năm 1932, địa bàn Cần Thơ được chia lại thành 5 quận:
- Quận Cái Răng: bao gồm cả lỵ Cần Thơ, có 2 tổng là Định Bảo (trước thuộc quận Châu Thành cũ) và Định An (trước thuộc quận Trà Ôn cũ)
- Quận Ô Môn: có 2 tổng là Định Thới và Thới Bảo
- Quận Phụng Hiệp: có 2 tổng là Định Phước và Định Hòa
- Quận Cái Vồn: có 2 tổng là An Trường (trước thuộc quận Châu Thành cũ) và Bình Lễ (trước thuộc quận Trà Ôn cũ)
- Quận Cầu Kè: có 2 tổng là Thành Trị và Tuân Giáo.
Tên quận mới được lấy theo tên gọi nơi đặt quận lỵ mới. Trong đó, quận Cái Răng có quận lỵ mới đặt tại Cái Răng, còn trước đó quận lỵ quận Châu Thành cũ đặt tại ngay lỵ Cần Thơ. Đồng thời, quận Cái Vồn có quận lỵ mới đặt tại Cái Vồn, còn trước đó quận lỵ quận Trà Ôn cũ đặt tại Trà Ôn.
Ngày 27 tháng 6 năm 1934, do có một số quận có nơi đặt quận lỵ lại lần nữa dời về địa điểm cũ, chính quyền thực dân Pháp lại một lần nữa lấy lại tên gọi cũ cho một số quận ở Cần Thơ. Trong đó, đổi tên quận Cái Răng thành quận Châu Thành như cũ, đổi tên quận Cái Vồn thành quận Trà Ôn như cũ. Quận Châu Thành vẫn gồm 2 tổng là Định Bảo và Định An; quận Trà Ôn vẫn gồm 2 tổng là An Trường và Bình Lễ. Như vậy cho đến năm 1945, Cần Thơ bao gồm 5 quận: Châu Thành, Ô Môn, Phụng Hiệp, Cầu Kè, Trà Ôn.
Ngày 30 tháng 11 năm 1934, chính quyền thực dân Pháp lại sắp xếp đất đai thị xã Cần Thơ trực thuộc Cần Thơ thành 5 khu phố và 1 khu phố ngoại ô để thu thuế thổ trạch.
Giai đoạn 1945-1954
Từ năm 1876 đến năm 1954, địa giới hành chính Cần Thơ thời Pháp thuộc vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, trong thời gian chiến tranh Đông Dương, chính quyền kháng chiến của Việt Minh có điều chỉnh một phần địa giới hành chính của Cần Thơ. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975. Lúc bấy giờ, Cần Thơ là một trong 21 ở Nam Bộ.
Trong 2 năm 1948 và 1949, Cần Thơ nhận thêm huyện Thốt Nốt từ Long Xuyên; nhận các huyện Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng, Châu Thành và thị xã Rạch Giá từ Rạch Giá vừa bị giải thể và nhận huyện Kế Sách từ Sóc Trăng. Đồng thời, Cần Thơ giao hai huyện Trà Ôn và Cầu Kè về cho Vĩnh Long. Từ năm 1951, hai huyện Trà Ôn và Cầu Kè lại thuộc Vĩnh Trà, vốn là một được phía chính quyền Việt Minh thành lập do hợp nhất hai Vĩnh Long và Trà Vinh trước đó. Đến năm 1954, Vĩnh Trà bị giải thể, chia lại thành hai Vĩnh Long và Trà Vinh như cũ.
Ngày 29 tháng 12 năm 1952, chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp quyết định công nhận đô thị lỵ Cần Thơ trở thành thị xã hỗn hợp (commune mixte) Cần Thơ trực thuộc Cần Thơ.
Tuy nhiên, việc thay đổi phân chia sắp xếp hành chính trong Cần Thơ của chính quyền Việt Minh trong giai đoạn này lại không được phía chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp của Bảo Đại và sau này là chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận. Đến năm 1954, chính quyền Việt Minh lại quyết định tái lập Rạch Giá. Tháng 10 năm 1954, các huyện Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng, Châu Thành và thị xã Rạch Giá cũng trở lại thuộc Rạch Giá. Đồng thời, huyện Thốt Nốt cũng trở lại thuộc Long Xuyên, huyện Kế Sách trở lại thuộc Sóc Trăng. Bên cạnh đó, Cần Thơ cũng nhận lại các huyện Trà Ôn và Cầu Kè như cũ.
Giai đoạn 1954-1976
Sau hiệp định Genève năm 1954, ban đầu chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa ban đầu vẫn duy trì tên gọi Cần Thơ như thời Pháp thuộc.
Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Ngày 17 tháng 2 năm 1956 – dưới thời Tỉnh trưởng Đặng Văn Quang (từ tháng 1-1956 đến tháng 4-1957), theo Sắc lệnh số 16-NV, chính quyền Việt Nam Cộng hòa quyết định thành lập Tam Cần bao gồm phần đất được tách ra từ các Vĩnh Long, Trà Vinh và Cần Thơ. Hai quận Trà Ôn và Cầu Kè khi đó thuộc về Tam Cần. Tuy nhiên, đến cuối năm 1956, Tam Cần lại bị giải thể, sáp nhập vào Trà Vinh và sau đó đổi tên là Vĩnh Bình. Từ năm 1957, các quận Trà Ôn và Cầu Kè cùng thuộc về Vĩnh Bình.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143-NV để ” thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các và lỵ tại Việt Nam”. Địa giới và địa danh các ở miền Nam thay đổi nhiều, một số mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 . Lúc này, Phong Dinh được thành lập do đổi tên từ Cần Thơ. Tỉnh lỵ Phong Dinh đặt tại Cần Thơ và vẫn giữ nguyên tên là “Cần Thơ”, về mặt hành chánh thuộc xã Tân An, quận Châu Thành.
Ngày 23 tháng 2 năm 1957, dưới thời viên trưởng Phong Dinh là Đỗ Văn Chước, này được nhận lại quận Long Mỹ (gồm cả vùng đất Vị Thanh) như cũ. Ngày 24 tháng 12 năm 1961, tách vùng đất ở Long Mỹ, Vị Thanh sáp nhập vào địa bàn Chương Thiện vừa mới thành lập. Sau đó, các quận, các tổng, xã trong Phong Dinh và Chương Thiện đều phân chia lại. Sau năm 1965, các tổng đều bị giải thể, các xã trực thuộc quận.
Tuy nhiên phía chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi Phong Dinh mà vẫn gọi theo tên cũ là Cần Thơ.
Tháng 7 năm 1956, chính quyền Cách mạng cũng cho thành lập Tam Cần và đến cuối năm 1956 cũng giải thể này. Lúc này, hai huyện Trà Ôn và Cầu Kè cũng được đưa về Tam Cần, sang năm 1957 lại được phía chính quyền Cách mạng giao về cho Trà Vinh. Năm 1957, huyện Long Mỹ trở lại thuộc Cần Thơ. Năm 1958 – dưới thời Tỉnh trưởng là Đỗ Văn Chước (từ tháng 4-1957 đến tháng 12-1959) , huyện Kế Sách lại chuyển về thuộc Cần Thơ.
Năm 1963, huyện Thốt Nốt thuộc An Giang (trước năm 1956 là Long Xuyên) lại được đưa về Cần Thơ. Tháng 6 năm 1966, thành lập thị xã Vị Thanh trực thuộc Cần Thơ. Tháng 10 năm 1966, huyện Châu Thành thuộc Cần Thơ được chia ra thành hai huyện là Châu Thành A và Châu Thành B. Cuối 1967 nhập lại là Châu Thành. Sau nhiều lần chia tách rồi sáp nhập Châu Thành Vòng Cung vào Châu Thành A, Châu Thành B nhập lại là huyện Châu Thành.
Năm 1969, tách thị xã Cần Thơ khỏi Cần Thơ trực thuộc khu Tây Nam Bộ. Năm 1971, thị xã Cần Thơ trở lại thuộc Cần Thơ.
Tháng 8 năm 1972, Thường vụ Khu ủy Khu 9 của phía chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tách thị xã Cần Thơ ra khỏi Cần Thơ, hình thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Khu 9, bao gồm thị xã Cần Thơ và 6 xã vùng ven thuộc các huyện Ô Môn, Châu Thành trước đó.
Như vậy cho đến năm 1976, Cần Thơ và thành phố Cần Thơ là hai đơn vị hành chính ngang bằng nhau. Tỉnh Cần Thơ khi đó bao gồm các đơn vị hành chính trực thuộc: thị xã Vị Thanh, huyện Châu Thành, huyện Phụng Hiệp, huyện Ô Môn, huyện Long Mỹ, huyện Thốt Nốt và huyện Kế Sách.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì hai đơn vị hành chính cấp ngang bằng nhau là Cần Thơ và thành phố Cần Thơ cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng “quận” có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng “huyện” (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa).
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp trong toàn quốc “nhằm xây dựng các thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước”. Theo Nghị quyết này, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ (ngoại trừ huyện Thốt Nốt), Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một , tên gọi mới cùng với nơi đặt lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.
Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó Cần Thơ (có cả huyện Thốt Nốt), Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ được tiến hành hợp nhất lại thành một .
Giai đoạn 1976-1992
Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp ngang bằng nhau là Cần Thơ, Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ để thành lập mới có tên là Hậu Giang. Tỉnh lỵ Hậu Giang lúc đó là thành phố Cần Thơ, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc Hậu Giang.
Khi mới thành lập, Hậu Giang gồm có thành phố Cần Thơ, thị xã Sóc Trăng, thị xã Vị Thanh và 11 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Phụng Hiệp, Long Mỹ, Kế Sách, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Long Phú, Thạnh Trị, Vĩnh Châu.
Ngày 15 tháng 12 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 330-CP về việc hợp nhất huyện Long Mỹ và thị xã Vị Thanh thuộc Hậu Giang thành một đơn vị hành chính lấy tên là huyện Long Mỹ thuộc Hậu Giang. Thị xã Vị Thanh chuyển xuống thành thị trấn Vị Thanh thuộc huyện Long Mỹ, Hậu Giang.
Ngày 26 tháng 10 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng của ban hành Quyết định số 119-HĐBT về việc tách huyện Long Mỹ thành hai huyện Long Mỹ và huyện Mỹ Thanh thuộc Hậu Giang.
Ngày 6 tháng 4 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng của ban hành Quyết định số 64-HĐBT về việc đổi tên huyện Mỹ Thanh thành huyện Vị Thanh thuộc Hậu Giang.
Từ đó cho đến cuối tháng 3 năm 1992, Hậu Giang cũ gồm có thành phố Cần Thơ, thị xã Sóc Trăng và 12 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Phụng Hiệp, Vị Thanh, Long Mỹ, Kế Sách, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Long Phú, Thạnh Trị, Vĩnh Châu.
Ngày 5 tháng 5 năm 1990, thành phố Cần Thơ được Trung ương công nhận là đô thị loại 2 trực thuộc .
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết chia Hậu Giang để tái lập Cần Thơ và Sóc Trăng. Tỉnh Cần Thơ gồm thành phố Cần Thơ và 6 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Phụng Hiệp, Vị Thanh, Long Mỹ. Tỉnh lỵ đặt tại thành phố Cần Thơ.
Giai đoạn 1992-2003
Tỉnh Cần Thơ chính thức được tái lập và đi vào hoạt động trở lại từ tháng 4 năm 1992. Tỉnh Cần Thơ lúc đó có diện tích 2.965,36 km², dân số là 1.832.045 người, bao gồm thành phố Cần Thơ và 6 huyện: Châu Thành, Long Mỹ, Ô Môn, Phụng Hiệp, Thốt Nốt, Vị Thanh. Tỉnh lị là thành phố Cần Thơ.
Ngày 1 tháng 7 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 45/1999/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Vị Thanh, đổi tên huyện Vị Thanh thành huyện Vị Thủy và thành lập các phường, xã, thị trấn thuộc thị xã Vị Thanh và huyện Vị Thủy, Cần Thơ.
Ngày 6 tháng 11 năm 2000, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 64/2000/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Châu Thành để thành lập huyện Châu Thành A, Cần Thơ. Theo đó, tái lập huyện Châu Thành A trên cơ sở 22.139 ha diện tích tự nhiên và 163.357 nhân khẩu của huyện Châu Thành.
Từ đó cho đến cuối năm 2003, Cần Thơ gồm 9 đơn vị hành chính trực thuộc: thành phố Cần Thơ, thị xã Vị Thanh, huyện Châu Thành, huyện Châu Thành A, huyện Phụng Hiệp, huyện Vị Thủy, huyện Long Mỹ, huyện Ô Môn, huyện Thốt Nốt.
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội Việt Nam thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số . Theo đó, chia Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và Hậu Giang như sau:
- Thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương có diện tích tự nhiên là 138.959,99 ha và dân số hiện tại là 1.112.121 ngưười, bao gồm: diện tích và số dân của thành phố Cần Thơ cũ; huyện Ô Môn; huyện Thốt Nốt; một phần của huyện Châu Thành, bao gồm: thị trấn Cái Răng; các ấp Thạnh Mỹ, Thạnh Huề, Thạnh Thắng, Yên Hạ và 176 ha diện tích cùng với 2.216 ngưười của ấp Phú Quới thuộc xã Đông Thạnh; các ấp Thạnh Hóa, Thạnh Hưưng, Thạnh Thuận, An Hưng, Thạnh Phú, Phú Khánh, Khánh Bình và 254,19 ha diện tích cùng với 1.806 người của ấp Phú Hưng thuộc xã Phú An; các ấp Phú Thành, Phú Thạnh, Phú Thuận, Phú Thuận A và 304,61 ha diện tích cùng với 1.262 người của ấp Phú Lợi thuộc xã Đông Phú; một phần của huyện Châu Thành A, bao gồm: xã Trưường Long; xã Nhơn ái; xã Nhơn Nghĩa; ấp Tân Thạnh Đông và 84,7 ha diện tích cùng với 640 người của ấp Tân Thạnh Tây thuộc xã Tân Phú Thạnh.
- Tỉnh Hậu Giang có diện tích tự nhiên là 160.772,49 ha và dân số hiện tại là 766.105 người, bao gồm: diện tích và số dân của thị xã Vị Thanh; huyện Phụng Hiệp; huyện Long Mỹ; huyện Vị Thủy; phần còn lại của huyện Châu Thành và huyện Châu Thành A, trừ phần diện tích và số dân của hai huyện này đã được điều chỉnh về thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương quy định như trên. Tỉnh lỵ Hậu Giang đặt tại thị xã Vị Thanh.
Như vậy, Cần Thơ chính thức bị giải thể kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2004.