Lịch sử
Phủ Dầy có ý nghĩa là “đền lớn ở làng Kẻ Dầy”.
Năm 1557 triều vua Lê Anh Tông, làng Kẻ Dầy mới lấy tên chữ là xã An Thái, chia làm bốn thôn: Vân Cát, Vân Đình, Vân Cầu, Nham Miếu. Vì hai quan tiến sĩ Trần Ngọc Kỳ và Trần Bích Hoành cùng xã An Thái bất bình với nhau về chức Tiên chỉ, không ai nhường ai nên dân sở tại xin chia xã An Thái làm hai xã nhỏ: một xã lấy tên là Tiên Hương và một xã là Vân Cát, cách nhau 2 km. Mỗi nơi có phủ thờ Liễu Hạnh riêng.
Năm 1861 (Tự Đức thứ 12) xã An Thái mới chính thức đổi tên là Tiên Hương.
Phủ Chính tại thôn Tiên Hương được xây dựng từ thời Lê – Cảnh Trị (1663 – 1671)
Hiện nay, thôn Tiên Hương được đổi tên là xã Kim Thái.
Không gian đền phủ
Đền thờ của Đức Thánh Mẫu gọi là “Phủ”, vì Đức Thánh Mẫu được sắc phong là “Liễu Hạnh Công Chúa”. “Phủ” là danh từ chỉ định dinh cơ của các vương công, và theo lẽ đó chỗ thờ công chúa cũng là nơi công chúa trú ngụ nên đền thờ Liễu Hạnh cũng dùng chữ Phủ.
Quần thể Phủ Dầy bao gồm hơn 20 di tích gắn liền với cuộc đời Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong lần giáng sinh thứ 2. Gồm Phủ Chính Tiên Hương, Phủ Vân Cát, Phủ Bóng (Nguyệt Du Cung), phủ Giáp Ba, phủ Dinh, phủ Đá, phủ Nội, phủ Tổ (Khải Thánh), đền Trình, đền Công Đồng, đền Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai, đền Mẫu Thượng, đền Mẫu Thoải, đền Mẫu Đông Cuông, đền Đức Vua, đền Quan Lớn, đền thờ Lý Nam Đế, đền Đức Thánh Trần, chùa Tiên Hương, chùa Linh Sơn, chùa Dần, chùa Gôi, chùa Vân Cát…
Lịch sử hình thành
Phủ Dầy khởi thủy ban đầu chỉ là 1 quán cỏ được thờ phụng đơn sơ thời Lê Thế Tông (1578 – 1599), sau tới thời Phúc Thái thời vua Lê Chân Tông (1643 -1649) đựợc trùng tân, như trong bài Bái An Thái Tiên nữ từ của Tiến sỹ Phạm Đình Kính (người xã Cổ Sư, huyện Thiên Bản, nay là xã Vĩnh Hào, huyện Vụ Bản), được khắc trên bức Bảo Hành:
Bái An Thái Tiên Nữ từ
Vân Hương Tái thế nhất truyền kỳ
Lê thị đầu sinh Đinh Tỵ niên
Giá tại Trần môn năng khắc hậu
Từ ư An ấp khả quang tiền
Thế Tông thủy tạo mao từ quán
Phúc Thái trùng khai ngoã thạch hiên
Hoằng Định dĩ mông ban bảo chiếu
Linh danh ảnh hưởng khởi u huyền !
Dịch nghĩa:
Đến bái yết đền vị Tiên nữ An Thái:
Lại xuống làng Vân năm Đinh Tỵ
Họ Lê sự lạ hãy còn truyền
Chồng con lúc sống trong Trần tộc
Thờ phụng khi về ở Thái thôn
Quán cỏ Thế Tông đời ấy dựng
Nhà xây Phúc Thái bấy giờ tôn
Thời Vua Hoằng Định ban ơn sắc
Chớ nói mơ hồ chuyện kính tin !
Các giai đoạn khởi tạo, trùng tu:
Quán cò Thế Tông (1578 – 1599) đầu mới dựng
Nhà xây Phúc Thái (1643 -1649) lại trùng tân.
Đời vua Hoằng Định (1609 -1619) ơn ban sắc
Linh thiêng huyền ảo mãi lưu truyền.
Phủ Chính Tiên Hương là một công trình đẹp được xây dựng từ thời Lê Cảnh Trị (1663 – 1671) và đã qua nhiều lần trùng tu. Phủ Tiên Hương có 19 toà với 81 gian lớn nhỏ, mặt phủ quay về phía tây nam nhìn về dãy núi Tiên Hương. Trước phủ có hồ và một sân rộng, có 3 toà nhà dàn hàng ngang hai tầng, tách mái đó là phượng du nơi đón khách tới hành hương. Một hồ bán nguyệt có lan can thấp bao quanh, có bình phong và hai cầu vượt đều bằng đá chạm khắc hình con rồng với móng vuốt sinh động tinh xảo. Phủ có 4 lớp thờ (4 cung): đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ. Các cung đều được tập trung các nghệ thuật chạm khắc tinh vi, thể hiện đủ các mảng đề tài: rồng, phượng, hổ… Chính cung (cung đệ nhất) có một khám thờ khảm trai, bề thế và tinh xảo. Đây chính là nơi đặt 5 pho tượng có giá trị mỹ thuật cao của thế kỷ thứ 19.
Phủ Vân Cát được xây dựng trên khu đất rộng gần 1ha, mặt quay về hướng tây bắc. Phủ Vân Cát hiện nay có 7 toà với 30 gian lớn nhỏ. Phía trước có hệ thống cửa ngọ môn với 5 gác lầu; phía ngoài ngọ môn có hồ bán nguyệt, giữa hồ là nhà thủy lâu, 3 gian, mái cong. Phủ Vân Cát cũng có 4 cung như ở phủ Tiên Hương. Trung tâm là nơi thờ chúa Liễu, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải là đền thờ Lý Nam Đế.
Lăng Thánh Mẫu Liễu Hạnh được xây dựng vào năm 1938. Lăng được xây dựng bằng đá xanh, chạm trổ đẹp, với diện tích 625m2, gồm có cửa vào lăng theo hướng đông tây, nam bắc. Các cửa đều có trụ cổng trên đắp hình bông sen. Giữa lăng là ngôi mộ khối bát giác, mỗi cạnh chừng 1m. Toàn lăng có 60 búp sen hồng trông xa như một hồ sen cạn.
Di tích Phủ Dầy có giá trị rất cao về trình độ kiến trúc nghệ thuật cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Đến với Phủ Dày vừa để thưởng ngoạn cảnh đẹp, vừa là dịp Mẫu ban cho điều lành và sự may mắn.
Sinh hoạt tín ngưỡng
Hội Phủ Dầy được tổ chức hàng năm vào ngày 3 tháng 3 âm lịch. Lễ hội nhằm tổ chức nghi lễ, thắp hương biết ơn Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Cùng thời điểm này, bà Chúa Liễu Hạnh cũng được thờ tại nhiều lễ hội khác trên Việt Nam, nhưng hội Phủ Dầy thuộc vào loại long trọng nhất, với sự tham gia của đông đảo dân chúng.
Có 3 nghi thức quan trọng nhất trong Lễ hội Phủ Dầy bao gồm:
- Lễ Rước Mẫu Thỉnh Kinh,
- Lễ Rước Đuốc tại Phủ Chính ,
- Lễ kéo chữ Hoa Trượng Hội.
Ngoài ra trong lễ hội còn có các trò chơi truyền thống như: Thi hát văn, hát chèo, múa rối nước, đấu vật, đấu cờ người, thổi cơm thi… Nghi lễ Hầu Đồng diễn ra trong suốt thời gian lễ hội.
Thành ngữ dân gian một số nơi ở miền Bắc có câu:
Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ
Cha là Đức Thánh Trần Hưng Đạo, còn Mẹ chính là Thánh Mẫu Liễu Hạnh.