XXXII.— CÁC VIỆC KIÊNG KỊ
Ngoài sự kiêng ngày xấu, lại còn nhiều sự kiêng nữa, nói đại khái ít điều sau nầy
Đầu năm mới và sáng mồng một đầu tháng kiêng đòi nợ, sợ rông cả năm hoặc cả tháng.
Đầu năm chưa làm lễ động thổ, kiêng đào đất hoặc giã chày cối và quét nhà, sợ cả năm làm ăn không lợi.
Sáng sớm kiêng văng tục, sợ rông cả ngày.
Ba tháng hè kiêng cưới xin, sợ không hay.
Năm cùng tháng tận kiêng làm cửa làm nhà và các việc vui mừng, sợ không hay.
Việc vui mừng, việc tế tự và khi vào trước mặt quan trưởng kiêng mặc đồ trắng, e thất kính.
Nhà có tang kiêng dùng đồ đỏ, e trái lễ.
Hiếu chủ kiêng ăn trầu, kiêng việc vui mừng, kiêng mặc đồ tơ lụa, e thất hiếu.
Đầu năm mới kiêng mặc đồ chàm xám, e sái.
Mặc đồ sô gai, kiêng không được vào nhà ai, e sái.
Đàn bà chửa con so kiêng hái quả trên cây, e quả sinh mất.
Đàn bà chửa kiêng gần tử thi, và kiêng đưa ma tiểu thương, e độc.
Mẹ chồng chửa kiêng cưới con dâu, e độc.
Vợ chửa, chồng kiêng sát sinh và kiêng đóng cọc, e độc.
Người mới đẻ, kiêng không cho người ngoài giắt tiền vào phòng, sợ trẻ giật mình.
Người mới đẻ, người ngoài kiêng vào nhà, sợ cung long thì làm ăn lẩn quẩn, không hay.
Đàn bà lạ chửa, kiêng không cho đẻ trong nhà, e độc.
Người sống kiêng mặc áo thừa và nằm giường thừa của người chết, e độc.
Người làng khác chết kiêng không cho đưa ma qua làng, sợ độc.
Cha mẹ kiêng đưa con gái về nhà chồng, e người ta cười.
Vợ chồng kiêng rửa chung một khăn mặt, e độc.
Con cháu kiêng tên ông bà cha mẹ, e thất kính.
Người trẻ tuổi kiêng tôi vôi, e chóng bạc đầu.
Trẻ thơ, kiêng khen tốt đẹp béo đẫy, e quở quang.
Trẻ con kiêng đội nón trong nhà, e lùn.
Trẻ đi học, kiêng ăn cơm cháy, sợ tối dạ và kiêng ăn chân gà, sợ viết run tay.
Học trò đi thi kiêng ăn tôm, vì con tôm như hình chữ liệt (chữ phê hỏng) của quan trường phê, sợ sái.
Làm văn kiêng nói con khỉ, con tiều, con hùm, con beo, sợ ế hàng.
Buôn bán kiêng mặc cả một lời, sợ không được may mắn.
Kẻ bán hàng quẩy gánh (gánh) kiêng người ta bước qua đòn gánh, sợ gánh không cân.
Làm nhà kiêng làm chẵn gian, phải ba hoặc năm hoặc bảy mới được, sợ độc.
Làm cửa ngõ kiêng đối ngõ với nhà khác, sợ độc.
Trước cửa kiêng người làm nhà chắn hướng, sợ bất lợi.
Gian giữa kiêng đầu nóc nhà ai xuyên vào, sợ độc.
Chữa nhà kiêng thu hẹp hơn trước, sợ sái.
Giường chiếu trong nhà kiêng dựng ngược, sợ sái.
Ở nhà kiêng ngồi giữa bậc cửa, e thất lễ.
Ra ngõ kiêng gặp gái, e bất lợi.
Uống rượu kiêng úp chén và dốc ngược chai, e say rượu.
Đánh bạc kiêng ăn đầu vịt và kiêng người vịn vai, ngồi chống lẹ, sợ hãm tài.
Đánh bài kiêng chia bài trước khi chưa đủ tay, sợ không thành.
Đi hát, cầm chầu kiêng đánh trở mặt trống và kiêng chạm vào chiếu rượu khi mới trải, sợ sinh sự cãi nhau.
Con hùm kiêng gọi là ông ba mươi, con rắn kiêng gọi là ông lốt, con voi kiêng gọi là ông vâm.
*
* *
Xem các sự kiêng kỵ của ta, thực là lắm sự nực cười, không có nghĩa lý gì, mà tục cứ thấy kiêng thì kiêng chớ không ai hiểu bởi cớ làm sao cả.
Lạ quá! Những sự nên kiêng thế nào cho khỏi ngu dốt, kiêng thế nào cho khỏi yếu đau, kiêng thế nào cho khỏi nghèo hèn, kiêng thế nào cho khỏi nhục nhân cách, thì không mấy người tìm cách mà kiêng, đi kiêng những điều vụn vặt, những sự vu vơ, nào kiêng ngày kiêng tháng, nào kiêng đứng kiêng ngồi, nào kiêng ăn kiêng mặc, nào kiêng cười kiêng nói, kiêng cả đến ra ngõ gặp gái, kiêng cả đến sáng sớm đòi nợ, sao mà kiêng lắm điều lạ lùng làm vậy?
Đến như thi cử kiêng tôm, buôn bán kiêng khỉ, mới lại ngộ nữa, không biết ăn tôm thì bóng vía con tôm nó nhảy vào quyển thi, nói khỉ thì hồn vong con khỉ nó ám vào cửa hàng hay sao? Hay là trông thấy hình nó mà sợ, nghe đến tiếng nó mà ghê, rồi không làm được văn, không bán được hàng hay sao? Chắc là không phải thế, thế thì vì cớ gì mà kiêng?
Thôi nói qua mấy điều, đủ biết là tính mình tin nhảm, thực là lý tưởng trẻ con.